BÀI THỨ MƯỜI
TÂM BẤT TƯƠNG ƯNG HÀNH PHÁP
(CÓ 24 MÓN)
Tâm bất tương-ưng hành pháp, gọi tắt là “Bất tương-ưng hành”. Chữ “Hành-pháp”
là những pháp thuộc về “Hành-uẩn”. Hành-uẩn là một trong năm uẩn.
Chữ “Hành” là sanh-diệt dời-đổi; chữ “Uẩn” là chứa nhóm. Hành-uẩn có hai loại:
1.
Tương-ưng hành-uẩn, tức là các tâm-sở (51 món). Chữ “Tương-ưng” là ưng-thuận
với Tâm-vương.
2.
Bất tương-ưng hành-uẩn, tức là 24 món “bất tưong-ưng hành” sau đây; 24 món này không
tương-ưng với tâm, chúng chỉ y ba phần: Tâm-vương, tâm-sở và sắc-pháp mà giả thành-lập.
(Tam, phần-vị sai-biệt cố).
1. ÐẮC.
Ðược, trái với mất. Thí như “Tôi được đồng xu”, cố-nhiên phải có đồng xu là
“sắc pháp”, và nhãn-thức để thấy, ý-thức phân-biệt là tâm-pháp, cùng với các tâm-sở
chung khởi là tâm-sở-pháp; phải đủ cả ba phần như thế, mới thành nghĩa “được”.
2. MẠNG-CĂN.
Thân mạng. Do nghiệp đời trước kéo dẫn, làm cho thần-thức thọ thân, sống trong
một thời-gian hoặc lâu hay mau, gọi là “mạng-căn”.
3. CHÚNG ÐỒNG PHẬN.
Cũng như chữ “đồng loại”. Các loại chúng-sanh hoặc hữu-tình hay vô-tình, loài
nào đồng với loài nấy. Như loài người đồng với người; loài vật đồng với vật.
4. DỊ SANH TÁNH.
Những loài sanh ra khác với Thánh-nhơn, tức là phàm-phu; chỗ khác gọi “phi-đắc”:
Chúng phàm-phu không được Thánh-quả. Bởi thế nên gọi “Dị sanh tánh” hay “phi-đắc”
đều được cả.
5. VÔ-TƯỞNG ÐỊNH.
Ðịnh này diệt hết các tâm-vương và tâm-sở của 6 thức trước. Song đây chỉ gọi
“Vô-tưởng” là vì “tưởng” làm chủ-động vậy.
6. DIỆT-TẬN ÐỊNH.
Ðịnh này không những diệt hết các tâm-vương và tâm-sở của 6 thức trước, mà diệt
luôn cả phần tạp-nhiễm của tâm-vương tâm-sở về thức thứ Bảy.
Vô-tưởng định là định của phàm-phu; còn Diệt-tận định là định của Thánh-nhơn.
7. VÔ-TƯỞNG BÁO.
Người ở cõi Dục tu Vô-tưởng định, sau khi mạng chung, đặng báo-thân ở cõi trời Vô-tưởng.
8. DANH THÂN.
Tên hay danh-từ. Có danh-từ đơn và danh-từ kép.
9. CÚ THÂN.
Câu. Do ráp nhiều tiếng thành câu; câu có ngắn và dài.
10. VĂN THÂN.
Chữ. Chữ là chỗ y-chỉ của danh-từ và câu.
11. SANH.
Sanh ra. Nghĩa là từ hồi nào đến giờ không có, nay mới có.
12. TRỤ.
Ở. Những vật đã sanh ra rồi, còn lưu lại trong một thời-gian, chưa diệt.
13. LÃO.
Già, suy-yếu gần chết.
14. VÔ THƯỜNG.
Không thường, biệt-danh của chết.
15. LƯU-CHUYỂN.
Xoay-vần, nhơn-quả trước sau nối nhau không dứt.
16. ÐỊNH VỊ.
Nhơn-quả lành, dữ khác nhau, không lộn-lạo.
17. TƯƠNG-ƯNG.
Ưng-thuận với nhau. Như nhơn nào quả nấy, cân-xứng với nhau.
18. THẾ TỐC.
Các pháp hữu-vi xoay-vần mau lẹ như chong-chóng.
19. THỨ ÐỆ.
Thứ lớp, trật-tự không có lộn-lạo.
20. THỜI.
Thời-gian: quá-khứ, hiện-tại và vị-lai.
21. PHƯƠNG.
Không-gian: Ðông, Tây, Nam, Bắc, tứ-duy, thượng hạ.
22. SỐ.
Số lượng. Như: một, hai, ba, bốn cho đến trăm, ngàn v.v…
23. HÒA-HỢP TÁNH.
Các duyên hòa-hợp không có trái nhau.
24. BẤT HÒA-HỢP TÁNH.
Những pháp chống trái, không hòa-hợp với nhau.
Nói tóm lại, từ trước đến đây đã kể 94 pháp: 9 món Tâm-vương, 51 món Tâm-sở, 11
món Sắc-pháp, 24 món Bất tương-ưng hành, đều thuộc về pháp hữu-vi có sanh-diệt biến-đổi.
Sáu pháp sau đây thuộc về vô-vi.
Chữ “hữu-vi” là những gì có tạo-tác, có sanh-diệt, không thường còn. “Vô-vi”
là những gì không tạo-tác, không sanh-diệt, không tăng giảm, vắng-lặng thường còn.
V. VÔ-VI
(CÓ 6 MÓN)
Pháp Vô-vi không sanh-diệt, không biến-đổi, không phải như các pháp hữu-vi là Tâm-vương,
Tâm-sở, Sắc-pháp và Bất tương-ưng hành có sanh diệt biến-đổi. Do các pháp
hữu-vi (94 món) diệt rồi, thì pháp vô-vi mới hiện bày (Tứ, sở hiển thị cố).
Thật ra, vô-vi không phải có 6 pháp, song vì theo từng khía-cạnh của nó để giải-thích,
nên đặt ra 6 tên.
1. HƯ-KHÔNG VÔ-VI.
Chơn-như hay Pháp-tánh, không thể dùng ý-thức suy-nghĩ hay lời nói luận-bàn được.
Nó phi sắc, phi tâm, không sanh diệt, không cấu tịnh, không tăng giảm, nên gọi là
“Vô-vi”.
Bởi nó không ngã, không pháp, rời các cấu-nhiễm, rỗng-rang như hư-không, nên gọi
là “Hư-không vô-vi”. Ðây là theo thí-dụ mà đặt tên.
2. TRẠCH-DIỆT VÔ-VI.
Do dùng trí-tuệ Vô-lậu, lựa chọn diệt-trừ hết các nhiễm-ô, nên chơn-như vô-vi mới
hiện. Vì thế nên gọi là “Trạch-diệt vô-vi”.
3. PHI-TRẠCH-DIỆT VÔ-VI.
Vô-vi không cần lựa-chọn diệt-trừ các phiền-não. Có hai nghĩa:
1.
Tánh chơn-như vốn thanh-tịnh, không phải do lựa-chọn diệt-rừ các phiền-não nhiễm-ô
mới có, nên gọi là “Phi-trạch-diệt”.
2.
Các pháp hữu-vi tạp-nhiễm, vì thiếu duyên không sanh-khởi, nên pháp vô-vi được hiện.
Bởi thế nên gọI là “Phi-trạch-diệt”.
4. BẤT-ÐỘNG-DIỆT VÔ-VI.
Ðệ tứ thiền đã lìa được ba định dưới, ra khỏi tam tai (đao-binh tai, hỏa-tai, thủy-tai)
không còn bị mừng, giận, thương, ghét v.v… làm chao-động nơi tâm, nên gọi là “Bất-động-diệt”.
5. THỌ-TƯỞNG-DIỆT VÔ-VI.
Khi được Diệt-tận-định, diệt-trừ hết “thọ” và “tưởng” tâm-sở nên gọi là “Thọ-tưởng-diệt
vô-vi”.
6. CHƠN-NHƯ VÔ-VI.
Không phải Vọng, gọi là Chơn (không biến-kế sở-chấp); không phải điên-đảo gọi là
Như (không y-tha khởi), tức là thật-tánh của các pháp (Viên-thành-thật).
Trong luận Ðại-thừa trăm pháp này, ngoại-nhơn hỏi hai câu:
1.
Tất cả pháp là gì?
2.
Thế nào là Vô-ngã?
Từ trước đến đây, Luận-chủ lược nói 100 pháp, để trả lời câu hỏi thứ nhất rồi; sau
đây trả lời về câu hỏi thứ hai.
PHẦN THỨ HAI, NÓI “VÔ-NGÔ
CHÁNH VĂN
Nói “Vô-ngã”, tóm có 2 loại:
1.
Nhơn vô-ngã.
2.
Pháp vô-ngã.
Người đời chấp tất cả các pháp thật có, tức là chấp Ngã. Chấp Ngã có hai:
1.
Nhơn-ngã.
2.
Pháp-ngã.
Chấp thân này thật có, gọi là Nhơn-ngã. Chấp núi sông, tất cả các cảnh-vật
bên ngoài thật có, gọi là Pháp-ngã.
Do chấp ngã nên sanh ra tham, sân, si rồi tạo ra các nghiệp, sanh-tử luân-hồi trong
lục-đạo. Bởi thế nên Phật nói:
“Tất cả pháp không có Ngã (ta)”.
Nói “Tất cả pháp” tức là bao trùm cả loài hữu-tình và vô-tình. Loài hữu-tình
không thật có là “Nhơn vô-ngã”. Loài vô-tình như hoàn-cảnh, sự vật không thật
có, là “Pháp vô-ngã”.
KẾT-LUẬN
Từ trước đến đây, lược nói 100 pháp thì đã bao-trùm Nhơn-ngã và Pháp-ngã.
Phàm-phu chấp cả Nhơn-ngã và Pháp-ngã đều thật có. Tiểu-thừa chỉ chấp Pháp-ngã
là thật.
Trong luận này nói:
1.
8 món tâm-vương là tự-thể của thức và hơn tất cả (nhứt thế tối thắng cố).
2.
51 món tâm-sở là phần sở-hữu và tương-ưng của thức (dữ thử tương-ưng cố).
3.
11 món sắc-pháp là phần hình bóng, do tâm-vương và tâm-sở hiện ra (nhị sở hiện ảnh
cố).
4.
24 món bất tương-ưng hành là do ba phần: tâm-vương, tâm-sở và sắc-pháp, phân chia
ngôi thứ sai-khác mà giả lập (tam, phận-vị sai-biệt cố).
5.
6 món vô-vi là do bốn món hữu-vi trên (tâm-vương, tâm-sở, sắc-pháp và bất-tương-ưng-hành)
diệt hết mà hiện-bày ra, tức là thật-tánh của thức (tứ, sở hiển thị cố).
Bởi thế nên biết: Người đời chấp “Nhơn-ngã” và “Pháp-ngã” đều không ngoài
thức. Do đó mà đức Thế-tôn nói:
“Nhứt thế Pháp Vô-ngã”
Và “Vạn Pháp duy-thức”.
Viết xong tại Phật-Học-Ðường
Nam-Việt
Rằm tháng 6 năm Kỷ-hợi (1959)