BÀI THỨ BA
III.- CHƯƠNG
PHỔ NHÃN
1.- NGÀI PHỔ NHÃN HỎI PHẬT
Khi ấy Ngài Phổ Nhãn Bồ tát, ở trong
đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ
thẳng bạch rằng:
-
Bạch đức Đại bi Thế Tôn, xin ngài vì các vị Bồ tát ở trong hội nầy và tất cả chúng
sanh đời sau, giảng dạy thứ lớp tu hành của Bồ tát.
-
Bạch Thế Tôn, như chúng sanh kia, khi nghe Phật nói pháp “ly huyễn tam muội” nầy,
tâm sanh mê muội, vì không biết làm sao để hạ thủ công phu. Vậy, nếu không
có phương tiện chơn chánh, thì không thể ngộ nhập được Viên Giác.
-
Xin ngài mở lòng từ bi, vì những người chưa ngộ như chúng con hiện tại và các chúng
sanh đời sau, tạm lập ra các phương tiện: phải tu hành thế nào? phải suy nghĩ (tư
duy) làm sao? phải an trụ và giữ gìn (trụ trì) thế nào mới ngộ nhận Viên Giác?
Ngài Phổ Nhãn Bồ tát thưa thỉnh như
vậy ba lần, kính cẩn lễ Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Đọan trước Ngài Phổ Hiền Bồ tát hỏi
Phật, ý hỏi rất u thâm.
Phật xứng theo lý Viên đốn mà trả lời
rằng: “Giác ngộ, không có từng tự; biết huyễn là lìa được huyễn, không cần phương
tiện.”
Ngài Phổ Nhãn Bồ tát, vì thấy Phật nói
Pháp môn “Viên đốn” như thế, nghĩ rằng: duy có những người trình độ cao thượng mới
có thể làm được; trái lại những kẻ căn cơ thấp kém, nếu không có tạm lập phương
tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành thì làm sao ngộ nhập được. Vì vậy, nên qua
chương nầy Ngài Phổ Nhãn Bồ tát cầu Phật tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp
tu hành, để cho chúng sanh có thể hạ thủ công phu, được nhập Viên Giác.
Tóm lại các câu hỏi của Ngài Phổ Nhãn
hỏi Phật, gồm trong hai phần:
1. Hỏi
về “Tư Huệ.” Tức là câu hỏi “Phải suy nghĩ thế nào cho chơn chánh?”
2. Hỏi
về “Tu Huệ.” Tức là câu hỏi “Phải an trụ và giữ gìn thế nào? Tạm lập
phương tiện tu hành và thứ lớp tu làm sao, mới ngộ nhập được Viên Giác?”
2.- PHẬT KHEN NGÀI PHỔ NHÃN
Khi đó đức Thế Tôn khen ngài Phổ Nhãn
Bồ tát và dạy rằng:
-
Nầy Thiện nam, quí lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau,
cầu thỉnh Như Lai tạm lập phương tiện tu hành và chỉ dạy thứ lớp tu làm sao, phải
suy nghĩ làm sao cho chơn chánh (tư huệ,) phải an trụ và giữ gìn thế nào (tu huệ.)
Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông khai thị.
Khi đó Ngài Phổ Nhãn Bồ tát và đại chúng
đều hoan hỷ, kính cẩn và chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật khen Ngài Phổ Nhãn vì đại chúng cầu Phật tạm lập phương tiện tu hành
để nhập Viên Giác. Trong câu hỏi gồm có hai phần: 1.- Hỏi về Tư Huệ
2.- Hỏi về Tu Huệ.
3.- PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU
-
Nầy Thiện nam, những hàng sơ học Bồ tát và các chúng sanh đời sau, muốn ngộ nhập
tâm Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thì cần phải chánh niệm (1), và xa lìa các
vọng huyễn. Vậy trước hết phải:
1. Y theo
pháp “chỉ” của Như Lai (Đại thừa định).
2. Giữ
gìn giới cấm kiên cố.
3. Sắp
xếp đồ chúng cho yên ổn (sắp xếp hoàn cảnh xung quanh cho thuận tiện).
4. Ở chỗ
thanh vắng.
5. Phải
suy nghĩ như sau:
LƯỢC GIẢI
Tổ sư đã dạy: “Thật tế địa lý bất thọ
nhứt trần, Phật sự môn trung bất xả nhứt pháp.” Nghĩa là: Về chỗ lý tánh tuyệt
đối thì không thọ một mảy may gì; nhưng về sự tướng tu hành thì không bỏ một việc
lành nào cả.
Đành rằng, về cảnh giới Viên Giác, chúng
ta nói không trúng, suy nghĩ cũng chẳng nhằm; “ngộ giác” không có tiệm thứ “rời
huyễn” chẳng cần phương tiện; nhưng khi hạ thủ công phu (bắt tay vào việc tu hành)
thì không thể bỏ qua các sự tướng tu trì.
Đại ý đoạn nầy Phật dạy khi hạ thủ công
phu trước phải dùng: 1.- Giới, 2.- Định (chỉ), 3.- Huệ (tức là câu “thường suy nghĩ
như vầy” ở đoạn sau), 4.- Sắp xếp các ngoại duyên cho được yên ổn.
Trong chương Phổ Hiền, Phật dạy: “Biết
huyễn là lìa được huyễn, không cần phương tiện, chẳng có tiệm thứ.” Đồng với
trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “bất tùy phân biệt” (không theo trần cảnh khởi
vọng niệm phân biệt).
Đoạn kinh nầy, Phật dạy phải dùng: “Giới,
Định, Huệ, và sắp xếp các ngoại duyên cho được thuận tiện”. Cũng như trong
Đại Cương Lăng Nghiêm về bài thứ 12, Phật dạy tu “Giới, Định, Huệ” và “ba món tiệm
thứ”.
(1) Chữ “Chánh
niệm” là niệm chơn chánh. Trong Viên Giác lược sớ giải” Rời các
vọng huyễn, dứt hết các vọng niệm, thế mới là “chánh niệm.”
4.- PHẬT DẠY QUÁN THÂN NẦY NHƯ HUYỄN
-
Phải thường nhớ nghĩ như vầy: Cái thân của ta nay đây, là do bốn chất: đất, nước,
gió, lửa hòa hiệp. Như da, thịt, gân, xương, răng, tóc, móng tay, tủy, nảo
v.v… là thuộc về chất đất; nước mắt, nước mũi, mồ hôi, mỡ, máu, mũ, đờm, dải, tiểu
tiện v.v… là thuộc về nước; nhiệt độ trong người là thuộc về lửa; phổi hô hấp, tim
đập, mạch chảy, các chuyển động trong người là thuộc về gió.
-
Đến khi bốn chất nầy rã rời, không còn hòa hợp nữa, thì cái thân hư dối nầy (cái
ta) ở chỗ nào?
LƯỢC GIẢI
Người đời, ai cũng chấp thân nầy là
ta, rồi thương yêu quí trọng nó, cho nên suốt đời lao tâm nhọc trí, vật lộn với
vật chất một cách vất vã, cũng vì lo cho ta ăn, mặc và ở v.v… Lo cho ta rồi
lo cho bà con quyến thuộc của ta, lo cả cho đồng bào chủng loại của ta.
Nếu ta được là người mất, đồng bào ta
được thì đồng bào người phải mất. Vì vậy mà thế giới cạnh tranh, nhơn loại
tương tàn, tương sát. Chúng sanh tạo không biết bao nhiêu điều tội lỗi, rồi
vĩnh viễn kiếp luân hồi.
Bởi thế nên đoạn nầy Phật dạy, khi hạ
thủ công phu là quán thân như huyễn (vô ngã.) Khi đã thấy xác thịt thân nầy
là hư huyễn rồi thì không còn tham lam luyến ái, vì nó mà tạo ra các tội lỗi để
thọ quả báo sanh tử luân hồi.
Muốn cho đọc giả thưởng thức được lý
thú ở đoạn nầy nên tôi dẫn một đoạn trong bài thơ “nguyện cầu” của một Thi sĩ sau
đây:
Ta còn để lại gì không?
Kìa non nước chảy, nọ song cát bồi!
Lang thang từ độ luân hồi,
U minh nẻo trước, xa khơi dặm về,
Trông ra bến thảm bờ mê,
Nghìn thu nửa khớp, bốn bề một phương.
Ta van cát bụi trên đường,
Dù nhơ dù sạch, đừng vương gót nầy.
5.- PHẬT DẠY QUÁN TÂM NHƯ HUYỄN
-
Nầy Thiện nam! Ông đã biết thân nầy rốt ráo không thật có, chẳng qua do các duyên
hòa hiệp làm ra thân tướng giả tạm, đồng với loại huyễn hóa.
-
Do bốn duyên là đất, nước, gió, lửa hòa hợp, nên vọng có sáu căn là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý. Nhơn bốn duyên và sáu căn, trong ngoài hợp lại thành cái
thân giả tạm, rồi vọng khởi ra các vọng tưởng phân biệt. Các vọng tưởng phân
biệt tích tụ trong thân nầy in như có cái hình tướng “năng duyên,” duyên theo bóng
dáng của trần cảnh, nên giả gọi đó là “Tâm.”
-
Nầy Thiện nam! Cái tâm hư vọng phân biệt nầy, nếu không có trần cảnh thì không
còn phân biệt được cái gì cả. Lại nữa, khi bốn duyên (tứ đại) rã rời rồi,
thì thân giả tạm nầy cũng không còn. Lúc bấy giờ, cái vọng niệm phân biệt
bị tích tụ trong thân thường duyên theo bóng dáng của sáu trần đó, cũng bị phân
tán. Rốt cuộc rồi không còn thấy có cái gì mà gọi là “Tâm” cả.
LƯỢC GIẢI
Về chương Văn Thù, Phổ Hiền, Phật dạy
quán “Cảnh như huyễn,” đến chương Phổ Nhãn nầy, trước Phật dạy quán “Thân như huyễn”
rồi sau quán “Tâm như huyễn” là vì lối tu hành phải bắt đầu từ dễ đến khó, từ cạn
đến sâu. Trước quán “Cảnh như huyễn” tuy khó, nhưng chưa khó lắm, đến quán
“Thân như huyễn” mới khó hơn. Đi sâu vô một từng nữa là quán “Tâm như huyễn”
lại càng khó hơn nữa.
Đại ý đoạn nầy, Phật dạy quán “Tâm như
huyễn: không có thật thể. -Người đời thường chấp tâm nầy (linh hồn) là ta,
cái ta nầy thường còn không biến đổi; nếu ta (linh hồn) là người thì khi chết rồi
trở lại làm người; còn ta là thánh thì chết rồi trở lại làm thánh, không có thay
đổi; người có tu cũng vậy, không tu cũng vậy. Bởi chấp như thế, nên họ không
sợ tội lỗi, chẳng ham phước lành, gây tạo nhiều tội ác rồi nhiều kiếp trầm luân,
chịu không biết bao nhiêu khổ sở!
Vì thương kẻ mê lầm nầy, nên Phật dạy
quán “Tâm như huyễn.” Khi hành giả quán thân và tâm (linh hồn) đều như huyễn,
không phải thật ngã (ta) một cách xác thật rồi, thì không còn vì nó mà tạo các tội
lỗi. Tội lỗi không tạo, vọng niệm chẳng sanh, huyễn thân và huyễn tâm đều
dứt hết, thì tánh Viên Giác thanh tịnh không hư huyễn hiện ra, lúc bấy giờ hành
giả ra khỏi sanh tử luân hồi.
6.- HUYỄN HẾT THÌ CHƠN HIỆN, NHƯ BỤI
SẠCH THÌ GƯƠNG SÁNG
-
Nầy Thiện nam! Vì “huyễn thân” của chúng sanh kia diệt, cho nên “huyễn tâm” cũng
diệt; do “huyễn tâm” diệt, cho nên “huyễn trần” cũng diệt; do “huyễn trần” diệt,
nên cái “huyễn diệt” đó cũng diệt luôn. Bởi thân tâm là tướng trần cấu hư
huyễn đã hoàn toàn diệt, nên lúc bấy giờ tánh “Viên Giác phi huyễn” hiện ra, thanh
tịnh khắp cả mười phương. Thí như lau gương, khi bụi hết thì gương sáng tự
hiện bày.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy Phật dạy các huyễn tuần
tự diệt. Có năm lớp:
1. Huyễn
Thân diệt.
2. Huyễn
Tâm diệt.
3. Huyễn
Trần (pháp) diệt.
4. Huyễn
Trí diệt.
5. Phi
Huyễn (Viên Giác) hiện.
Như lau gương sạch bụi thì ánh sáng
hiện ra.
7.- DÙNG NGỌC MA-NI DỤ TÁNH VIÊN GIÁC
-
Nầy Thiện nam! Dụ như ngọc Ma-ni trong sáng, tùy mỗi phương chiếu hiện ra
năm màu; nhưng người quê mùa không biết, cho năm màu (dụ cho ngũ uẩn) kia là thật
có.
-
Tánh Viên Giác thanh tịnh cũng thể, tùy các loài mà ứng hiện ra mỗi thân tâm (ngũ
uẩn) không đồng. Những kẻ mê muội lại chấp cho thân tâm đó là thật có, vì
thế nên không thể xa lìa được các tướng huyễn hóa hư vọng.
LƯỢC GIẢI
Luận về “bản tánh
Viên Giác” thì sáng suốt thanh tịnh không có một mảy trần, tức là nghĩa “Chơn không”;
nhưng theo nghiệp mà biến hiện, không một loài vật nào chẳng có, tuy có mà không
thật, có tức là nghĩa “Diệu hữu.”
Tánh Viên Giác không hai, nhưng tùy
theo vọng nghiệp của mỗi loài mà biến hiện các vật ngàn sai muôn khác. Người
khéo dùng thì nó hiện ra Tứ Thánh (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật). Kẻ
vụng dùng thì nó hiện ra lục phàm (Thiên, Nhơn, A Tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc
Sanh). Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dùng giây đờn thí dụ: Trong
giây đờn không có tiếng hay tiếng dở; tùy người biết sử dụng thì nó phát ra tiếng
hay, còn người không biết sử dụng thì nó phát ra tiếng dở. Cũng một giây đờn
đó, hay dở chỉ tại người khéo hay vụng mà thôi.
Đoạn kinh trên nói: “Ngọc Ma-ni trong
suốt” là dụ cho tánh “Viên Giác thanh tịnh”; nói “Ngọc Ma-ni tùy mỗi phía hiện ra
ngũ sắc” là dụ tánh “Viên Giác tùy mỗi loài hiện thân ngũ uẩn.”
Đại ý đoạn nầy nói: Trong ngọc Ma-ni
trong suốt không có ngũ sắc, nhưng vì tùy mỗi phương, ánh chiếu in như có ngũ sắc.
Trẻ con không biết, lầm tưởng ngũ sắc kia là có thật, rồi sanh tâm tham muốn khóc
đòi v.v… chớ đâu biết rằng “ngũ sắc” kia không thật. Cũng như trong tánh Viên
Giác thanh tịnh không có ngũ uẩn, nhưng tùy theo nghiệp chúng sanh vọng thấy in
như có năm uẩn. Chúng sanh mê muội không biết hư huyễn, lại chấp cho là thật
có, rồi sanh tham mê ái luyến, tạo ra các nghiệp. Vì thế mà bị triền miên
trong sanh tử, không bao giờ ra khỏi các vọng huyễn.
8.- VÌ CÓ KẺ LÌA HUYỄN VÀ NGƯỜI CHƯA
LÌA ĐƯỢC NÊN PHÂN CÓ THÁNH VÀ PHÀM
-
Nầy Thiện nam! Bởi đối với những kẻ mê muội chấp thân tâm huyễn cấu nầy là thật
có, không thể xa lìa được, nên ta gọi đó là chúng sanh.
-
Đối với người đã xa kìa được thân tâm cấu huyễn thì ta gọi đó là Bồ tát. Đến
khi các “huyễn cấu” hết, “pháp đối trị” trừ, “trí đối trị” cũng không, cho đến không
còn cái danh từ để kêu gọi, và lời nói để luận bàn (người không cảnh vắng, các vọng
hoàn toàn diệt, thì tạm gọi là Viên Giác hay Phật).
-
Nầy Thiện nam! Các Bồ tát và chúng sanh đời sau, khi diệt hết các ảnh tượng vọng
huyễn rồi thì tánh “Viên Giác thanh tịnh” hiện ra khắp cả vô biên hư không, không
có ngăn mé và phương hướng.
LƯỢC GIẢI
Những người mê muội,
không biết các pháp đều do tánh Viên Giác huyễn hiện, lại chấp cho là thật có, rồi
sanh ra ái luyến triền miên, nên Phật gọi là “chúng sanh.” Những người biết
được các pháp hư huyễn đều do Viên Giác sanh, đã dùng pháp đối trị và xa lìa, thì
Phật gọi đó là “Bồ tát.” Lên một từng nữa là khi các “cảnh huyễn cấu” hết,
“pháp trừ huyễn” không, “trí đối trị” chẳng còn, “danh từ kêu gọi” và “lời nói luận
bàn” cũng không, cho đến “người” cũng chẳng còn: cảnh vắng người không. Như
bịnh hết, thuốc bỏ, ông thầy thuốc cũng không còn. Các vọng huyễn hoàn toàn
diệt hết, thì cảnh giới Viên Giác thanh tịnh viên mãn hiện khắp ở mười phương. Lúc
bấy giờ tạm gọi là “Phật.”
9.- VIÊN GIÁC HIỆN THÌ VÁC PHÁP (CĂN,
TRẦN, THỨC) ĐỀU THANH TỊNH
-
Nầy Thiện nam! Vì tánh Viên Giác thanh tịnh sang suốt đã hiện ra, nên “tâm” thanh
tịnh; do Tâm thanh tịnh nên “6 thức” thanh tịnh; do 6 thức thanh tịnh nên “6 căn”
thanh tịnh; do 6 căn thanh tịnh nên “6 trần” thanh tịnh; do 6 trần thanh tịnh nên
4 đại, 12 xứ, 18 giới và 25 loài đều thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy nói:
Vì tánh Viên Giác thanh tịnh đã xuất hiện nên các pháp thuộc về thế gian là Căn,
Trần, Thức cũng đều thanh tịnh. Dụ như trong rừng cây y lan (loại cây hôi,)
một phen gỗ cây chiên đàn xuất hiện, thì cả rừng đều thơm ngát.
Sáu thức:
Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.
Sáu căn:
Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỹ căn, Thiệt căn, Thân căn và Ý căn.
Sáu trần:
Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Bốn đại:
Địa, Thủy, Hỏa và Phong.
Mười hai xứ: Sáu căn và sáu trần.
Mười tám giới: 6 căn, 6 trần và 6 thức.
25 loài:
Cõi dục có 14 loài, là bốn châu (Đông
Thắng thần châu, Nam Thiện bộ châu, Tây Ngưu hóa châu, Bắc Cu lô châu), bốn ác thú
(Tu la, Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh) và sáu cõi dục (1- Tứ Thiên Vương, 2- Đao lợi,
3- Dạ ma, 4- Đâu suất, 5- Hóa lạc, 6- Tha hóa tự tại.) Cõi sắc có 7 loài,
là bốn cõi thiền (từ Sơ thiền đến Tứ thiền) cõi Phạm vương, cõi Vô tưởng và Ngũ
tịnh cư. Cõi vô sắc có bốn: 1- Không Vô biên xứ, 2- Thức Vô biên xứ, 3- Vô
sở hữu xứ, 4- Phi phi tưởng xứ.
-
Nầy Thiện nam! Vì các pháp thế gian thanh tịnh, nên các pháp xuất thế gian như:
10 lực, 4 món Vô úy, 4 món Vô ngại trí, 18 pháp Bất cọng, 37 phẩm Trợ đạo và 84000
pháp môn Đà-la-ni, tất cả đều thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy nói: Một pháp đã thanh
tịnh, nên tất cả các pháp đều thanh tịnh, vì tất cả đều đồng tánh Viên Giác.
Thí như một cục phèn bỏ vào thau nước, một chỗ trong thì cả thau đều trong.
Đoạn trên nói các pháp Thế gian thanh
tịnh. Đoạn nầy nói các pháp Xuất thế gian cũng thanh tịnh.
Mười Lực: 1- Tri giác xứ phi xứ trí
lực. 2- Tri tam thế nghiệp báo chí lực. 3- Tri chư thiền giải thoát
tam muội trí lực. 4- Tri chư căn thắng liệt trí lực. 5- Tri chủng chủng
giải trí lực. 6- Tri chủng chủng giới trí lực. 7- Tri nhứt thế chí sở
đạo trí lực. 8- Tri Thiên nhãn vô ngại trí lực. 9- Tri túc mạng vô lậu
trí lực. 10- Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
Bốn món Vô úy: 1- Nhứt thế trí
vô sở úy. 2- Lậu tận vô sở úy. 3- Thuyết chướng đạo vô sở úy.
4- Thuyết tận khổ đạo vô sở úy.
Bốn món Vô ngại trí:
1- Pháp vô ngại trí. 2- Nghĩa vô ngại trí. 3- Từ vô ngại trí.
4- Lạc thuyết vô ngại trí.
Mười tám pháp bất cọng:
1- Thân vô thất. 2- Khẩu vô thất. 3- Niệm vô thất. 4- Vô
dị tưởng. 5- Vô bất định tâm. 6- Vô bất tri dĩ xả. 7- Dục vô diệt.
8- Tinh tấn vô diệt. 9- Niệm vô diệt. 10- Huệ vô diệt. 11- Giải
thoát vô diệt. 12- Giải thoát tri kiến vô diệt. 13- Nhứt thế thân nghiệp
tùng trí huệ hành. 14- Nhứt thế jkhẩu nghiệp tùng trí huệ hành. 15-
Nhứt thế ý nghiệp tùng trí huệ hành. 16- Trí huệ quá khứ thế vô ngại.
17- Trí huệ tri vị lai thế vô ngại. 18- Trí huệ tri hiện tại thế vô ngại.
Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo: (xem trong Phật học Phổ Thông, khóa
thứ III trong bài Đạo Đế nói rõ.)
Đà-La-Ni:
Tàu dịch là “Tổng trì.” Nghĩa là ở trong mỗi một pháp môn tóm giữ được
tất cả Pháp. Do trừ 84000 phiền não mà được 84000 pháp Đà-La-Ni.
-
Nầy Thiện nam! Vì các pháp thế gian và xuất thế gian đều thanh tịnh, nên cá nhân
thanh tịnh; do cá nhân đã thanh tịnh nên nhiều cá nhân thanh tịnh, cho đến mười
phương chúng sanh đều đặng Viên Giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy nói Chánh báo chúng sanh thanh
tịnh. Vì đã đồng tánh Viên Giác, nên các pháp nói trên đã thanh tịnh, thì
nhân chúng sanh cũng thanh tịnh. Cũng một ý nầy, nhưng có kinh lại nói một
cách khác: “Còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì ta cũng chưa thành Phật”,
vì đồng một bản thể như vậy.
-
Nầy Thiện nam! Vì một thế giới đã thanh tịnh nên nhiều thế giới cũng thanh tịnh.
Vì nhiều thế giới thanh tịnh nên cùng tận 10 phương hư không (không gian) trùm khắp
3 đời (thời gian), tất cả đều thanh tịnh bình đẳng không động.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy nói Y báo của chúng sanh thanh
tịnh. Vì đồng tánh Viên Giác, nên Chánh báo đã thanh tịnh thì Y báo cũng thanh
tịnh. Cũng như trong nhà tối lâu đời, khi đốt lên ngọn đèn, ánh sáng được
xuất hiện, một chỗ vừa sáng thì tất cả chỗ trong nhà đều sáng.
10.- VÌ THẤY HIỆN TƯỢNG (CÁC PHÁP)
BÌNH ĐẲNG NÊN BIẾT BẢN THỂ (VIÊN GIÁC) BÌNH ĐẲNG.
-
NầyThiện nam! Hư không đã bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác bình đẳng
không động; vì bốn đại bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác bình đẳng
không động. Như thế, cho đến 84000 pháp môn Đà-La-Ni đều bình đẳng không động,
nên biết tánh Viên Giác bình đẳng không động.
LƯỢC GIẢI
Từ bản thể là tánh Viên Giác, sanh ra
các pháp hiện tượng là hư không, bốn đại và thiên hình vạn trạng, cho đến 84000
pháp Đà-La-Ni. Hiện tượng đã từ bản thể sanh, mà hiện tượng đã bình đẳng không
động, cố nhiên bản thể cũng bình đẳng không động.
11.- BẢN THỂ (TÁNH) KHẮP CẢ 10 PHƯƠNG
NÊN HIỆN TƯỢNG KHẮP CẢ 10 PHƯƠNG
-
Nầy Thiện nam! Vì tánh Viên Giác thanh tịnh không động, viên mãn cùng khắp tất cả,
không có bờ bến, nên biết 6 căn, 6 trần, 4 đại, cho đến pháp môn Đà-La-Ni cũng thanh
tịnh và viên mãn khắp giáp cả Pháp giới.
-
Nầy Thiện nam! Vì tánh Viên Giác kia mầu nhiệm viên mãn không hoại, nên bản thể
của căn, bản thể của trần, không có một pháp nào hoại diệt và lộn lạo; cho đến pháp
môn Đà-La-Ni, cũng không có hoại diệt và lộn lạo. Thí như trăm ngàn ngọn đèn,
đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà,
nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy có hai phần. Phần trên
nói: Vì bản thể là tánh Viên Giác châu biến, nên hiện tượng là các pháp cũng châu
biến. Đại ý phần nầy giống đoạn văn kinh Hoa Nghiêm, nói về “Sự, Lý vô ngại
Pháp giới”.
Phần dưới nói: Vì bản thể không hoại
diệt nên tất cả pháp không có một pháp nào hoại diệt. Thí như trăm ngàn ngọn
đèn chiếu trong một căn nhà, không có lộn lạo và hoại diệt nhau. Ý đoạn nầy giống
với đoạn văn trong kinh Hoa Nghiêm nói về “Sự, Sự vô ngại Pháp giới”. Trong
kinh Pháp Hoa chép: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”. (Pháp
nào an trụ địa vị pháp ấy, Thế gian tướng là thuờng trụ tướng). Và kinh Lăng
Nghiêm có chép: “Tứ đại châu biến, không có hoại diệt và tạp loạn lẫn nhau”.
12.- VÌ CHỨNG ĐƯỌC VIÊN GIÁC, NÊN THẤY
CÁC PHÁP BÌNH ĐẲNG
-
Nầy Thiện nam! Vì các Bồ tát thành tựu được tánh Viên Giác rồi, nên không sợ pháp
hữu vi ràng buộc, không cầu pháp Vô vi giải thoát, không nhàm chán sanh tử, không
ưa thích Niết Bàn, không kính ngưòi trì giới, không ghét người phạm giới, không
tôn trọng kẻ tu lâu, chẳng khinh ngưòi mới học. Tại sao thế? – Vì tất cả các
pháp đều là Viên Giác vậy.
-
Thí như con mắt xem thấy các cảnh vật hiện tiền, cái “thấy” nầy trùm khắp tất cả,
không thương, ghét. Tại sao thế? Vì cái “thấy” nầy chỉ có một thể, nên
không có thương, ghét vậy.
LƯỢC GIẢI
Vì tất cả các pháp đã đồng một tánh
Viên Giác, nên Bồ tát bình đẳng: không thương, không ghét, không khinh, không trọng,
không sợ sanh tử, chẳng cầu Niết Bàn. Đoạn nầy lý rất cao thâm, chúng ta không
nên đem phàm tình mà phán đoán.
Ông Thường Bất Khinh Bồ Tát nói: “Tôi
không dám khinh các ngài, các ngài sẽ thành Phật, vì các ngài đều có tánh Phật”
(khả năng thành Phật).
Và trong kinh Tứ thập Nhị chương chép…
“Cúng dường cho nhiều Đức Phật, công đức không bằng cúng dường cho người Vô niệm,
Vô trụ, Vô tu, Vô chứng”. Đại ý các đoạn kinh trên đây đều nói đến thể tánh
bình đẳng nầy.
13.- CÓ TU VÀ CÓ CHỨNG, MÀ THẬT RA
KHÔNG TU VÀ KHÔNG CHỨNG
-
Nầy Thiện nam! Các Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, tuy tu tập Tâm nầy (Viên
Giác) mà được thành tựu (quả Phật) rồi, nhưng thật ra thì không tu và cũng không
thành, vì tánh Viên Giác vừa tịch diệt vừa phổ chiếu tất cả, đối với Phật hay chúng
sanh, không hai không khác.
LƯỢC GIẢI
Phật đã dạy: “Nhứt thế chúng sanh giai
hữu Phật tánh”. Nghĩa là: “Tất cả chúng sanh đều có Tánh Phật (Viên Giác).
Song chúng sanh vì bị mây vô minh che phủ mặt trăng Viên Giác (Phật) của mình, nên
in tuồng có mê; bởi in tuồng có mê nên cũng in tuồng có Tu và Chứng. Đến khi
mây vô minh tan hết, thì mặt trăng Viên Giác hiện ra. Mặt trăng nầy đâu phải
bấy giờ mới có, và cũng không phải do dụng công tu hành mới thành, vì nó sẵn có
từ vô thỉ đến giờ. Bởi thế nên nói: “in tuồng có Tu và có Chứng.” Trong
kinh Tứ Thập Nhị Chương, cũng với ý nầy, Phật đã dạy: “…Niệm đến chỗ không niệm
mới là chơn niệm, làm đến chỗ không làm mới là thật làm, nói đến chỗ không nói mới
thật là nói, tu đến chỗ không tu mới là chơn tu, chứng đến chỗ không chứng
mới là thật chứng…”
Tuy biết như vậy, nhưng lúc đầu tiên
hạ thủ công phu, phải có Tu và Chứng. Cũng như ông thầy giáo muốn cho cả lớp
học được yên lặng, thì phải dùng tiếng động là gõ thước trên bảng. Khi học
trò yên lặng thì tiếng gõ bảng hết, lúc bấy giờ mới đổi lại cảnh yên tịnh được.
Cũng vì ngộ lý nầy, nên người xưa có
làm bài thơ rằng:
Bách xích can đầu trực hạ thùy,
Nhứt ba tài động vạn ba tùy.
Dạ tịnh thủy hàn ngư bất thực,
Mãn thuyền không tải nguyệt minh qui.
Ý nghĩa bài thơ nầy, câu thứ nhứt nói:
“Nhợ 100 thước trên đầu cần câu, thả thẳng xuống mặt nước.” Câu thứ hai nói:
“Một lượn sóng vừa giợn (động) thì liền có muôn ngàn lược sóng nhấp nhô nổi theo.”
Hai câu nầy ý nói: Khi hạ thủ công phu, lúc đầu tiên thuộc về hữu hướng Tu, còn
phải dụng công có Tu có Chứng.
Câu thứ ba nói: “Đến đêm khuya các tiếng
động hết, một bầu tịch mịch thanh vắng, mặt nưóc đông lạnh, bằng phẳng như tờ, cá
cũng không ăn mồi”. Ý nói hành giả lúc bấy giờ đã đi sâu vào chỗ “Tâm cảnh
như như, ngã pháp đều không” thuộc về Vô tướng tu, Vô công dụng hạnh.
Câu thứ tư nói : “Chỉ còn thuyền trống
chở ánh sáng mặt trăng về…” Đại ý câu nầy nói: “Không tâm tải đạo”.
(Tâm trống không, chứa đạo). Hành giả lúc bấy giờ, tâm thể sáng suốt hiện
khắp cả 10 phương (Viên Giác); in tuồng có chứng có đắc mà thật ra không chứng và
không đắc.
14.- SANH TỬ VÀ NIẾT BÀN ĐỀU NHƯ MỘNG,
VÌ CHÚNG SANH VỐN ĐÃ THÀNH PHẬT
-
Các thế giới của chư Phật, nhiều như số cát sông Hằng, đều ở trong tánh “Viên Giác”
nầy. Cũng như hoa đốm ở trong hư không, mặc tình lăng xăng khởi lên và lăng
xăng diệt mất. Nó không phải “tức” là tánh Viên Giác, mà cũng không phải “ly”
tánh Viên Giác; không triền phược và giải thoát. Bởi thế nên biết “Sanh tử
và Niết bàn” cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn đã thành Phật từ
xưa đến giờ.
LƯƠC GIẢI
Đại ý đoạn nầy nói: tánh Viên Giác thanh
tịnh vắng lặng như hư không, nên mặc tình cho các pháp lăng xăng khởi diệt như hoa
đốm.
Niết Bàn là đối với Sanh tử mà có, trong
tánh Viên Giác, Sanh tử đã không, cho nên Niết bàn cũng như mộng.
Đứng về phương diện lý tánh mà luận,
thì tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh Phật (Viên Giác), nên nói “chúng sanh đã thành
Phật từ xưa đến nay”. Song chúng sanh vì bị mây vô minh che mờ, nên mặt trăng
Phật của mình chẳng hiện. Đến khi được gió Bát Nhã thổi tan mây vô minh rồi,
thì trăng Viên Giác (Phật) của mình tự hiện.
Cũng vì ngộ lý nầy, nên cổ nhơn có làm
bài thơ rằng:
Tòng hạ vấn đồng tử…
Ngôn: Sư thê dược khứ,
Chỉ tại thử sơn trung,
Vân thâm bất kiến xứ.
Dịch nghĩa: Dưới cây tong, hỏi
Đồng tử… Đồng tử thưa rằng: “Thầy đi hái thuốc, chỉ ở trong núi nầy thôi,
nhưng vì mây đen nên chẳng thấy được.”
Trong bài thơ nầy, tác giả mượn người
khách hỏi Đồng tử để nói về lý đạo.
Đại ý: Chúng sanh đi tìm Đạo.
Thật ra Đạo Phật không đâu xa, chỉ ở trước mắt. Nhưng vì chúng sanh bị mây
vô minh che mờ, nên chẳng thấy được Đạo Phật.
Trong kinh có câu “Tâm, Phật, chúng
sanh, tam vô sai biệt”: Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không sai khác. Hay là
câu “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”: Phật pháp tại thế gian, giác
ngộ không rời thế gian; cũng là chỉ cho ý nầy. Bởi chúng sanh và Phật đồng
một thể tánh Viên Giác, nên Phật với chúng sanh không hai, triền phược và giải thoát
không khác, sanh tử với Niết Bàn như mộng.
15.- CÁC PHÁP BÌNH ĐẲNG
-
Nầy Thiện nam! Phải biết sanh tử và Niết Bàn đều như giấc mộng hôm qua, cho nên
không có sanh diệt và cũng không có khứ lai. Ở nơi quả vị sở chứng, không
có “được” và “mất” hay “thủ” và “xả.” Ở nơi người năng chứng cũng không có
“tạo tác” và “đình chỉ” hay “sanh” (nhậm) và “diệt”.
-
Trong tánh Viên Giác, tất cả các pháp đều bình đẳng, không có hoại diệt. Rốt
ráo không có người năng chứng và quả sở chứng.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh nói: “Chư pháp tùng bổn lai,
thường tư tịch diệt tướng”. Nghĩa là: Các pháp từ xưa đến nay tướng nó thường
vắng lặng. Bởi đồng tánh Viên Giác, nên tất cả các pháp bình đẳng, không sanh
diệt, không khứ lai, không đắc thất, không thủ xả, không làm, không thôi, không
sanh, không diệt, rốt ráo không có người năng chứng và sở chứng, vì tất cả đều là
tánh Viên Giác vậy.
16.- TÓM LẠI
-
Nầy Thiện nam! Các vị Bồ tát kia phải y lời ta dạy trên mà suy nghĩ như vậy, dùng
phương tiện như vậy, y theo lớp lang và tuần tự tu hành như vậy, an trụ như vậy,
phải cầu pháp như vậy và khai ngộ như vậy, mới khỏi mê muội.
LƯỢC GIẢI
Nguyên trước Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật:
“Phải suy nghĩ làm sao? Lập phương tiện thế nào? Và thứ lớp tu hành ra sao? v.v…
Phật đã giải thích rành rẽ rồi, nên
đoạn nầy Phật dạy: “Phải suy nghĩ như vậy, dùng phương itện như vậy v.v… thì mới
khỏi mê muội và ngộ nhập được tánh Viên Giác”.
17.- PHẬT NÓI BÀI KỆ TÓM LẠI CÁC NGHĨA
TRÊN
Khi ấy đức Thế Tôn muốn tóm lại các
nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Phổ Nhãn! Ông phải biết:
Thân, Tâm của chúng sanh,
Tất cả đều như huyễn.
Thân nầy thuộc về bốn đại,
Tâm nầy trả sáu trần.
Bốn đại tan rã rồi,
Cái gì gọi là “TA?”
Tuần tự tu như vậy,
Tất cả đều thanh tịnh.
Viên Giác khắp Pháp Giới,
Không làm, thôi, sanh, diệt,
Không năng chứng, sở chứng:
Tất cả thế giới Phật
Như hoa đốm hư không.
Ba đời đều bình đẳng,
Rốt ráo không qua lại.
Bồ tát mới phát tâm,
Và chúng sanh đời sau,
Muốn cầu nhập Phật đạo,
Phải như thế tu hành.
LƯỢC GIẢI
Đại ý bài kệ nầy là tóm lại các nghĩa
trên.
Phật dạy quán sát Thân nầy và Tâm nầy
như huyễn, không có thật “Ngã”. Cứ như thế mà tu hành thì lần lần sẽ đưọc
thanh tịnh. Lúc bấy giờ tánh Viên Giác hiện ra khắp cả Pháp giới, không có
“năng chứng” và “sở chứng”. Các thế giới nhiều như số cát sông Hằng, đều ở
trong tánh Viên Giác, mặc tình nó sanh diệt như hoa đốm giữa hư không. Ba
đời đều bình đẳng rốt ráo không qua lại. Các Bồ tát và chúng sanh đời sau,
phải như thế tu hành, mới vào được Đạo Phật.