Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Bài Thứ 04: Chương Kim Cang Tạng

BÀI THỨ TƯ 

IV.- CHƯƠNG KIM CANG TẠNG

 1.- NGÀI KIM CANG TẠNG BỒ TÁT HỎI PHẬT 

       Khi ấy Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng và kính cẩn chắp tay, đảnh lễ dưới chân Phật rồi quỳ thẳng bạch rằng: 

-         Bạch đức Đại Bi Thế Tôn, ngài đã vì các vị Bồ tát nói rõ tánh “Viên Giác thanh tịnh” của Như Lai, và chỉ dạy những phương tiện, tuần tự tu hành để nhập tánh Viên Giác.  Ngài đã vén mở mây Vô minh mờ ám cho các chúng sanh.  Thính chúng trong pháp hội nầy nhờ lòng từ bi của Phật khai hóa, mà mắt trí huệ được sáng tỏ. 

-         Bạch đức Thế Tôn: 

1.                 Nếu các chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay, thì tại sao lại có tất cả vô minh để trở lại làm chúng sanh nữa?

 

2.                 Nếu chúng sanh sẵn có các vô minh, thì do nhơn duyên gì mà đức Như Lai lại nói: “Chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay?”

3.                 Nếu 10 phương chúng sanh đã thành Phật từ xưa, về sau lại sanh ra vô minh; vậy thì các đức Như Lai hiện nay đã thành Phật rồi, chừng nào các ngài sanh trở lại phiền não nữa?

 

-         Cúi xin đức Đại bi Thế Tôn vì các vị Bồ tát hiện tại và tất cả chúng sanh đời sau nhổ sạch gốc rễ nghi lầm, khiến chúng sanh đưọc ngộ nhập đạo vô thượng.

Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui. 

LƯỢC GIẢI 

Đại ý đoạn nầy, ngài Kim Cang Tạng Bồ tát nghi: có vô minh thì gọi là chúng sanh, không vô minh mới kêu là Phật; thế mà Đức Như Lai lại nói: “Chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay.”

Nếu chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay thì phải không còn vô minh.  Nếu không còn vô minh thì không còn gọi là chúng sanh nữa.  Tại sao Phật còn gọi “chúng sanh?” 

Lại nữa, nếu chúng sanh sẵn có vô minh thì không thể nói “nguyên lai thành Phật.”  Tại sao Phật lại nói: “Chúng sanh nguyên lai đã thành Phật.” 

Chúng sanh tu hành phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật.  Nếu khi được thành Phật rồi vô minh trở lại khởi lên làm chúng sanh nữa, thì tu biết chừng nào cho rồi!  Lại nữa, chư Phật hiện nay đã thành Phật , vậy chừng nào các ngài nổi vô minh trở lại làm chúng sanh nữa?

Đoạn nầy giống như trong kinh Lăng Nghiêm, khi ngài Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử hỏi Phật: “Chơn tâm vốn đã thanh tịnh tại sao lại thoát sanh ra sơn bà đại địa và chúng sanh?” 

2.- PHẬT KHEN NGÀI KIM CANG TẠNG BỒ TÁT 

Khi đó đức Thế Tôn khen ngài Kim Cang Tạng Bồ tát và dạy rằng: 

-         Nầy Thiện nam, quí lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau thưa hỏi Như Lai những đạo lý diệu huyền. 

-         Nay ta vì các ông nói giáo pháp Đại thừa nghĩa lý rốt ráo và cao thượng, khiến cho các vị Bồ tát tu học trong mười phương, và tất cả chúng sanh đời sau, đều đoạn trừ hết các nghi ngờ, đặng tín tâm chắc chắn.  Vậy các ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ dạy. 

Khi đó ngài Kim Cang Tạng Bồ tát và đại chúng đều vui mừng, kính cẩn vâng nghe lời Phật chỉ giáo. 

LƯỢC GIẢI 

Kim cang là chất ngọc quý, cứng rắn nhứt trong loại ngọc.  Nó đã cứng mà lại bén (sắc), hay phá hoại các vật, mà các vật không phá hoại được nó. 

Đoạn nầy ngài Kim Cang Tạng Bồ tát đứng lên thưa hỏi những chỗ khó khăn, là tiêu biểu phải dùng Kim cang trí mới phá trừ nổi những mê lầm (vô minh) sâu sắc. 

Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát cũng là một vị Thượng thủ trong hàng Bồ tát. 

3.- PHẬT DẠY: NGƯỜI MÊ NÓI NGỘ, NGỘ ẤY THÀNH MÊ 

-         Nầy Thiện nam! Tất cả các pháp, có thỉ chúng, sanh diệt, tiền hậu, hữu vô, nào tụ tán, khởi dừng, xoay vần, qua lại, các món thủ xả, mỗi niệm nối luôn, những loại kể trên đều là luân hồi cả.  Người chưa ra khỏi luân hồi mà nghĩ đến Viên Giác thì tánh “Viên Giác” đó cũng trở thành luân hồi.  (Vị xuất luân hồi nhi biện Viên Giác, bĩ Viên Giác tánh tức đồng lưu chuyển.)  Nếu người ra khỏi luân hồi (hết mê vọng rồi) thì không còn thấy có các hiện hư vọng ấy nữa.  

LƯỢC GIẢI

       Đại ý nầy Phật nói: Người còn ở trong vòng “mê” mà nói việc “ngộ” thì cái “ngộ” ấy cũng thành “mê.”  Dùng tâm chúng sanh nghĩ bàn đến cảnh giới Phật, thì cảnh giới Phật cũng thành chúng sanh.  Dùng tâm luân hồi mà nghĩ bàn đến tánh Viên Giác thì tánh “Viên Giác” cũng trở thành luân hồi. 

       Phật bảo ngài Kim Cang Tạng Bồ tát: Nếu ông đứng trong vòng hư vọng, tương đối, có thánh có phàm, có chúng sanh, có Phật v.v… mà luận đến cảnh giới tuyệt đối, bất tư nghị của chư Phật thì không thể đưọc.  Bởi thế nên người muốn hiểu chỗ cao siêu của đạo Phật, thì cần phải tu, chớ không thể nói suông mà hiểu được. 

4.- PHẬT DÙNG THÍ DỤ ĐỂ GIẢI THÍCH NGĨA TRÊN 

-         Nầy Thiện nam! Thí như: vì con mắt nháy mà thấy nưóc dợn sóng; vì mắt xem không kịp mà thấy thành vòng lửa; nhơn mây bay mà thấy bờ trôi.  Trong lúc các vật đây động, như mắt nháy, mây bay, thuyền chạy v.v… mà các vật yên tịnh kia như nước đứng, lửa đốm, trăng dừng, còn thấy chuyển động thay, huống chi ông dùng tâm cấu nhiễm sanh tử luân hồi mà quan sát tánh Viên Giác nầy làm sao chẳng cấu nhiễm.  Thế nên ông mới sanh ra ba điều nghi vấn trên. 

LƯỢC GIẢI 

       Trong đoạn nầy, Phật dùng những việc tầm thường trong đời làm thí dụ, như vì mắt nháy, mây bay, thuyền đi v.v… mà thấy nước dợn, trăng bay, bờ chạy v.v… để chỉ rõ: Vì dùng tâm cấu nhiễn mê vọng mà quan sát nghĩ ngợi đến cảnh Phật, nên cảnh Phật trở thành tương đối mê vọng. 

       Vì ngài Kim Cang Tạng Bồ tát dùng tâm phân biệt đối đãi có không, sanh diệt, thánh, phàm v.v… nên thấy có chúng sanh chưa thành Phật và có Phật đã thành.  Bởi thế nên ngài sanh ra ba điều nghi ngờ trên.  Nếu ngài nhập được tánh Viên Giác thanh tịnh, sanh tử và Niết bàn, chúng sanh và Phật đều không còn.  Lúc bấy giờ ngài không còn nghi ngờ như trên nữa.  Vì vậy nên đoạn sau Phật quở: “…những lời ông thưa hỏi đó, chẳng có đúng đắn…” 

5.- PHẬT DẠY: CÁC PHÁP HƯ HUYỄN KHÔNG CÓ THẬT SANH VÀ THẬT DIỆT 

-         Nầy Thiện nam! Thí như người bịnh lòa mắt, trông nơi hư không vọng thấy có các hoa đốm lăng xăng.  Đến khi bịnh lòa nhặm hết rồi, thì hoa đốm kia tự diệt.  Lúc bấy giờ, người ấy không nên hỏi: “cái bịnh lòa nhặm nầy đã diệt rồi, vậy chừng nào sanh trở lại nữa?”  Tại sao thế?  Vì cái lòa nhặm nó vọng huyễn không có thật thể vậy. 

-         Và cũng không nên hỏi: “Những chỗ hoa đốm diệt ở nơi hư không kia, vậy chừng nào hoa đốm ấy sanh trở lại nữa?”  Tại sao thế?  Vì trong hư không vốn không có hoa đốm, cho nên nó không có sanh ra hoa đốm hay diệt hoa đốm vậy. 

-         Sanh tử và Niết bàn đối với tánh Viên Giác, cũng đồng như hoa đốm sanh diệt trong hư không.  Tánh Viên Giác vẫn nhiệm mầu viên mãn, yên lặng chiếu soi, lìa cái nhặm vô minh và cảnh giới hoa đốm. 

-         Nầy Thiện nam! Nên biết hư không kia còn không phải tạm có và tạm không, huống chi tánh Viên Giác của Như Lai là bản tánh của hư không, nó bình đẳng tùy thuận các duyên, mà lại tạm có và tạm không hay sao. 

LƯỢC GIẢI 

       Đại ý đoạn nầy nói: Vô minh và các vọng cảnh đều hư huyễn không thật, cũng như hoa đốm và mắt nhặm.  Vì hoa đốm với nhặm đều không phải thật vật, cho nên nó không thật có sanh và diệt.  Bởi thế, khi hết nhặm rồi, không thể hỏi: “chừng nào nhặm trở lại nữa!”  Hay hoa đốm diệt rồi, cũng không thể hỏi: “Chừng nào nó sanh trở lại?” 

       Hoa đốm và bịnh nhặm, mặc tình nó vọng sanh, vọng diệt mà hư không lúc nào cũng vẫn thanh tịnh và yên lặng.  Cũng như vô minh và vọng cảnh, mặc tình vọng khởi và vọng diệt, mà tánh Viên Giác vẫn thanh tịnh viên mãn và xa lìa các vô minh cùng vọng cảnh. 

       Tánh hư không bình đẳng tùy thuận các đồ vật, mà hiện ra có tướng Vuông và Tròn.  Cũng như tánh Viên Giác bình đẳng, tùy thuận các duyên mà hiện ra tất cả Pháp. 

       Hư không, không phải nhơn lúc hoa đốm diệt mà nó tạm có, cũng không phải nhơn lúc hoa đốm sanh mà nó tạm không; bởi tánh hư không thường có và bình đẳng, tùy hoa đốm mặc tình sanh diệt, nhưng hư không vẫn không thay đổi. 

       Cũng thế, tánh Viên Giác thanh tịnh của Như lai, thường còn bình đẳng và tùy thuận các Pháp.  Không phải nhơn lúc vô minh diệt mà nó tạm có, hay vô sinh mà nó tạm không, nó tùy thuận tất cả, không có chướng ngại. 

6.- PHẬT DÙNG THÍ DỤ ĐỂ CHỈ RÕ KHI THÀNH PHẬT RỒI KHÔNG TRỞ LẠI LÀM CHÚNG SANH 

-         Nầy Thiện nam! Thí như chất kim khoáng, sau khi đưọc nấu lọc, bỏ hết quặng rồi thì chỉ còn vàng y.  Chất vàng nầy không phải do nấu lọc mới sanh ra, vì nó có sẵn từ trước kia rồi, và khi đã thành vàng y, cũng không bao giờ trở lại thành quặng nữa, dầu trải qua bao nhiêu năm, nó cũng không hư hoại. 

Tánh Viên Giác thanh tịnh của Như Lai cũng thế. 

LƯỢC GIẢI 

       Phật dùng vàng để thí dụ tánh Viên Giác, dùng khoáng dụ chúng sanh.  Khi vàng còn ở trong khoáng cũng như Phật tánh (Viên Giác) ở trong cái vỏ chúng sanh.  Vì y nơi Phật tánh sẵn có, nên Phật nói: “Chúng sanh đã thành Phật.” 

       Khi chất kim khoáng được đem ra nấu luyện, lọc bỏ hết quặng chỉ còn vàng y, thì vàng nầy không còn trở lại làm khoáng nữa. 

       Cũng như chúng sanh, sau khi trải qua thời gian tu luyện, gạn lọc hết vô minh, phiền não, tánh Viên Giác hiện ra, được thành Phật rồi, lúc bấy giờ không còn khởi vô minh phiền não trở lại làm chúng sanh nữa. 

       Dầu chưa được nấu luyện, lọc bỏ quặng ra, lúc ấy chất vàng vẫn sẵn có.  Đến khi nấu luyện, lọc bỏ quặng thành vàng y rồi, không phải lúc bấy giờ vàng mới có.  Tánh Viên Giác cũng thế, khi làm chúng sanh, nó vẫn sẵn có, nên nói: “Chúng sanh đã thành Phật.”  Trải qua thời gian tu luyện trừ hết vô minh phiền não, tánh Viên Giác hiện ra, không phải lúc bấy giờ nó mới sanh ra. 

       Khi tánh Viên Giác đã hoàn toàn hiện rồi thì vô minh phiền não không còn sanh trở lại nữa, nên nói: “Thành Phật rồi, không còn trở lại làm chúng sanh.” 

7.- TÁNH VIÊN GIÁC PHI TẤT CẢ TƯỚNG 

-         Nầy Thiện nam! Tánh Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai vốn không có Bồ đề và Niết Bàn, không có thành Phật và chẳng thành Phật, cũng không có luân hồi và phi luân hồi. 

LƯỢC GIẢI 

       Đứng về phương diện tương đối mà nói: Vì phiền não nên có Bồ đề, có sanh tử nên có Niết Bàn, có luân hồi nên mới có giải thoát, có chúng sanh mới có Phật. 

       Song đứng về phương diện lý tánh tuyệt đối, tức là tâm Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai mà nói thì phiền não đã không, nên Bồ đề chẳng có, sanh tử đã không nên Niết Bàn chẳng có, cho đến chúng sanh đã không nên Phật cũng chẳng có. 

       Đến cảnh giới nầy thì nói năng không trúng, suy nghĩ cũng chẳng nhằm.  Hành giả phải tự chứng nhập.

8.- TÁNH VIÊN GIÁC KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN 

-         Nầy Thiện nam! Rất đỗi như cảnh giới Niết Bàn thân tâm đoạn tuyệt của Thinh văn (1) Tiểu thừa kia, còn không thể dùng tâm phân biệt mà thân chứng được, huống chi cảnh giới Viên Giác thanh tịnh của Như Lai mà lại dùng tâm suy nghĩ so đo của chúng sanh, làm sao nhập được. 

-         Cũng như người dùng lửa đom đóm, để đốt núi Tu Di, làm sao đốt được.  Người dùng tâm luân hồi, sanh vọng chấp luân hồi, mà muốn vào biển Niết Bàn tịch mịch của Như Lai thì không thể được. 

-         Thế nên ta dạy: Tất cả các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, trước phải đoạn hết căn bản sanh tử luân hồi từ vô thỉ. 

LƯỢC GIẢI 

       Cảnh giới Niết Bàn của Thinh văn là cảnh giới Tiểu thừa (Trầm không thú tịch, khôi thân diệt trí) mà còn không thể nghĩ ngợi được, huống chi cảnh giới của Phật cao siêu tột bực, mà lại dùng tâm suy nghĩ và lời nói luận bàn được sao.  Nếu người dùng cái vọng tâm sanh tử luân hồi của phàm phu và trí của Tiểu thừa để suy nghĩ phân biệt cảnh giới Viên Giác của Như Lai, thì quyết không thể hiểu được.  (Dĩ luân hồi tâm, sanh luân hồi kiếm, nhập ư Như Lai đại tịch diệt hải, chung bất năng chí.)  Cũng như người dùng lửa của con đom đóm để đốt núi Tu Di thì không thể được. 

       Bởi thế, nên Phật dạy: “Trước phải đoạn hết căn bản sanh tử luân hồi từ vô thỉ,” tức là diệt vọng tâm phân biệt.  Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy phải rành rõ hai món căn bản là:

       1.- Phải đoạn căn bản sanh tử luân hồi là vọng tâm.

       2.- Phải y trụ nơi căn bản của Bồ đề Niết Bàn là chơn tâm. 

(1) Thân tâm đoạn diệt của Thinh văn:  -Hàng Thinh văn Tiểu thừa rất sợ việc hóa đạo độ sanh, vì sợ gặp những nghịch cảnh rồi vô minh phiền não nổi lên, mà phải bị thối chuyển.  Bởi thế nên các ngài cứ lo tu giải thoát một mình.  Từ đời nầy cho đến kiếp nọ, ưa ở chỗ thanh vắng tịch mịch, say đắm cảnh Niết Bàn của Tiểu thừa, giữ tâm yên tịnh luôn không dám khởi niệm say mê với cảnh thiền, thân không lay động cũng như tro nguội nên nói: “Thân tâm đoạn diệt.”  Chỗ khác gọi rằng: “Trầm không thú tịch khôi thân diệt trí,” nghĩa là: say sưa với cảnh không, thích thú nơi tịch mịch, thân yên lặng như tro nguội, tâm trí diệt, không móng niệm. 

       Bởi thế nên Phật quở quàng hàng Tiểu thừa là loại giống khô, mộng héo.  (Tiêu nha bại chủng), nghĩa là thứ giống khô rụi, không thể nứt mộng sanh chồi nữa được.

       Phật lại dạy rằng: Không ai đem giống gieo trồng trên hư không được mà phải gieo trồng trên mặt đất.  Giống Bồ đề cũng thế, không thể gieo trồng nơi chỗ trống không được, mà phải gieo trồng nơi đất chúng sanh.  Bởi thế nên muốn thành quả Phật Bồ đề, thì phải hóa độ chúng sanh. 

9.- KHÔNG THỂ DÙNG TÂM CHÚNG SANH PHÂN BIỆT ĐƯỢC CẢNH VẬT 

-         Nầy Thiện nam! Nếu có suy nghĩ phân biệt là từ vọng tâm (thức) khởi, nên tất cả suy nghĩ đều là cái vọng tưởng phân biệt duyên theo bóng dáng của sáu trần.  Nó hư vọng như hoa đốm trong hư không, chẳng phải là chơn tâm.  Nếu ông dùng cái vọng tâm suy nghĩ nầy mà suy nghĩ cảnh giới của chư Phật, thì cảnh giới ấy cũng lẩn quẩn trong vòng vọng tưởng của chúng sanh mà thôi.  Cũng như người ngồi trông đợi cho hoa đốm giữa hư không kết thành ra quả, thì không có thể được.

 

-         Nầy Thiện nam! Ông dùng tâm hư vọng thô phù, sanh ra các lối chấp xảo quyệt, (chấp càng) cho nên ông không thể nhập được cảnh Viên Giác chơn thật của Như Lai.  Bởi thế nên những lời ông hỏi trên, đều là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi đúng đắn chơn thật. 

LƯỢC GIẢI 

       Đức Thế Tôn, sau khi trải qua thời gian ba vô số kiếp tu hành, được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni rồi, ngài dạy rằng: “Nói thành Phật, thật ra không thành cái chi khác, mà chỉ trở lại với tánh Phật sẵn có đó thôi”.  Trong kinh nói: “Thành mà vẫn không thành”, hay câu: “Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô pháp diệt vô tâm”.  (Giác ngộ rồi cũng như khi chưa giác ngộ, vì không có pháp và cũng không có tâm gì khác.) 

       Tánh Phật nầy, không riêng gì một mình ngài có mà tất cả chúng sanh đều sẵn có.  Vì căn cứ theo Phật tánh sẵn có nầy, nên ngài nói: “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật”, hay trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh đều sẵn có đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai.”  (Nhứt thế chúng sanh cụ hữu Như Lai trí huệ đức tướng).  Bởi thế nên ngài nói: “Chúng sanh đã thành Phật từ lâu”. 

       Vậy người muốn hiểu đến lý nầy phải nhập cảnh giới Phật, trình độ phải gần như Phật mới hiểu được.  Nếu chỉ dùng tâm cấu nhiễm thô phù phân biệt của chúng sanh, mà so tính đến cảnh giới Phật thì làm sao hiển được.  Cũng như người muốn hiển câu nói của cụ già tám mươi, ít nhất trình độ cũng gần như cụ mới hiểu.  Nếu dùng trí non nớt của trẻ con năm mười tuổi mà suy nghĩ câu nói của cụ già thì làm sao hiểu được.  Bởi thế nên Phật nói: “Những lời ông hỏi trên đều là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi chơn thật”.

10.- PHẬT NÓI BÀI KỆ ĐỂ TÓM LẠI CÁC NGHĨA TRÊN 

Khi ấy đức Thế Tôn, muốn nói tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng: 

Kim Cang Tạng! nên biết:

Như Lai tánh vắng lặng,

Chưa từng có chung thỉ.

Nếu dùng tâm luân hồi,

Suy nghĩ cảnh giới Phật,

Cảnh Phật thành luân hồi.

Người ở bờ luân hồi,

Không thể vào biển Phật,

Phật tánh tuy sẵn có,

Phải tu mới hiển hiện.

Cũng như vàng sẵn có,

Phải lọc quặng mới thành.

Khi đã thành vàng y,

Không trở lại làm quặng.

Sanh tử và Niết Bàn,

Phàm phu cùng chư Phật,

Thảy đều như hoa đốm.

Tâm suy nghĩ đã huyễn;

Nên lời hỏi cũng huyễn

Làm sao nhập được chơn.

Nếu rõ được tâm nầy,

Mới cầu được Viên Gián. 

LƯỢC GIẢI 

       Bài kệ nầy tóm lại các nghĩa trên.  Đại ý nói: Tánh Viên Giác của Phật thanh tịnh vắng lặng, không có thánh, phàm, chúng sanh và Phật v.v…  Nế u dùng tâm phân biệt của chúng sanh mà phân biệt cảnh giới Phật, thì cảnh Phật cũng thành cảnh chúng sanh. 

       Chúng sanh tuy sẵn có Phật tánh, nhưng phải nhờ có tu mới hiển.  Cũng như chất vàng tuy sẵn có trong khoáng, nhưng phải nhờ lọc hết quặng mới thành vàng y.  Khi đã thành vàng y rồi, thì không còn trở lại làm quặng nữa.  Cũng như khi đã thành Phật rồi thì không còn trở lại làm chúng sanh. 

       Bởi đứng trong vòng vọng nhiễm tương đối, nên thấy có sanh tử và Niết Bàn, chúng sanh và Phật; chớ đứng về tánh Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thì các pháp trên đây đều như hoa đốm giữa hư không. 

       Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát vì muốn đại diện cho phàm phu nên đã dùng tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà suy nghĩ so đo, thấy có chúng sanh và Phật, và giả thốt ra các lời hỏi hư vọng ấy.  Những lời hỏi nầy, đối với cảnh Viên Giác chơn thật của Như Lai, thì chẳng nhằm chi cả.  Bởi thế nên Phật quở rằng: “Những lời ông hỏi đều không chơn chánh”. 

       Vậy nên hành giả phải rời các vọng niệm phân biệt, mới hiểu được tánh Viên Giác.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ VIII)
BÀI THỨ 05: CHƯƠNG DI LẶC BỒ TÁT
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712