Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Bài Thứ 13: Phật Bảo Ngài Văn Thù Lựa Pháp Tu Viên Thông

BÀI THỨ MƯỜI BA

I. PHẬT BẢO NGÀI VĂN-THÙ LỰA PHÁP TU VIÊN-THÔNG.

II. NGÀI VĂN-THÙ VÂNG LỜI PHẬT, LỰA PHƯƠNG-PHÁP TU.

III. CHÚNG-SANH Ở THẾ-GIỚI TA-BÀ NHỜ NGHE NÓI PHÁP MỚI BIẾT ÐƯỜNG LỐI TU-HÀNH.

IV. CÔNG-NĂNG CỦA NHĨ-CĂN (TAI NGHE).

V. NGÀI VĂN-THÙ QUỞ TRÁCH A-NAN HỌC NHIỀU MÀ KHÔNG TU.

VI. CÁC VỊ NGHE PHÁP ÐƯỢC CHỨNG NGỘ.

VII. A-NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG-PHÁP ÐỂ ÐỘ CHÚNG-SANH ÐỜI SAU.

VIII. PHẬT DẠY PHẢI TU GIỚI, ÐỊNH, HUỆ.

IX. NÓI VỀ ÐẠI-THỪA TÂM KHỞI, CÓ BỐN:

A. Ðoạn lòng dâm-dục.

B. Ðoạn lòng sát-hại.

C. Ðoạn trừ trộm cưóp.

D. Ðoạn trừ vọng-ngữ.

BÀI THỨ MƯỜI BA

I. PHẬT BẢO NGÀI VĂN-THÙ LỰA PHÁP TU VIÊN-THÔNG.

Khi ấy Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi:

- Ông đã nghe các vị đại Bồ-tát và A-la-hán vừa trình bày các phương-pháp tu-hành được thành đạo-quả. Thật ra 25 pháp tu này, đối với các vị thánh, thì tu pháp nào cũng đều được chứng quả cả, không có pháp nào hơn và kém. Song nay ta muốn cho A-Nan và chúng-sanh đời sau, nếu muốn vào Ðại-thừa Bồ-tát thì đối với 25 pháp tu này, ông nên lựa pháp nào tu-hành để mau thành đạo vô-thượng Bồ-đề.

II. NGÀI VĂN-THÙ VÂNG LỜI PHẬT, LỰA PHƯƠNG-PHÁP TU.

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi vâng lời Phật dạy, đứng dậy lạy Phật, kính cẩn nói bài kệ, khen chơn-tâm nhiệm-mầu sáng-suốt, chỉ rõ cái “vọng” vốn không và lựa chọn pháp tu viên-thông.

Nguyên văn chữ Hán

Giác hải tánh trừng viên

Viên trừng Giác nguyên diệu

Nguyên minh chiếu sanh sở

Sở lập chiếu tánh vong.

Mê vọng hữu hư-không

Y không lập thế-giới

Tưởng trừng thành quốc độ

Tri giác nãi chúng-sanh.

Không sanh đại-giác trung

Như hải nhứt âu phát

Hữu-lậu vi-trần quốc

Giai y không sở sanh.

Âu diệt không bổn vô

Huống phục chư tam hữu

Qui nguyên tánh vô nhị

Phương-tiện hữu đa môn.

Thánh tánh vô bất thông

Thuận nghịch giai phương-tiện

Sơ tâm nhập tam-muội

Trì tốc bất đồng luân…

- Chơn-tâm thanh-tịnh viên-mãn lại nhiệm-mầu, như biển đứng lặng và rộng sâu. Vì vọng-động chiếu soi (phân-biệt) nên sanh ra có cảnh bị chiếu (bị phân-biệt). Khi năng, sở đã vọng sanh, thì cái “tánh chơn” lại ẩn (chiếu tánh vong).

LƯỢC GIẢI

Như biển đứng lặng lóng trong, vì xao-động nên thành sóng, lúc bấy giờ tánh trong lặng của nước bị ẩn đi v.v…

- Từ mê-muội vọng-động cho nên có hư-không, nhơn hư-không mà có thế-giới. Những vọng-tưởng si-mê lóng lại thành ra thế-giới, còn cái phân-biệt hiểu biết thì làm chúng-sanh.

- Hư-không sanh ở trong chơn-tâm rộng lớn này, cũng như chùm bọt nổi trên mặt biển. Thế-giới nhiều như vi-trần đều y hư-không mà sanh; khi bọt tan cũng như hư-không diệt, thì hằng-sa thế-giới đều tiêu hết.

- Trở về chơn-tâm thì đồng một, nhưng trên đường tu có nhiều phương-tiện. Ðối với bực Thánh, tu pháp nào cũng đều chứng-quả, dầu khó hay dễ cũng đều là phương-tiện cả. Còn đối với kẻ sơ tâm tu-hành lại có khó và dễ, bởi căn-cơ không đồng. Hôm nay con xét 25 pháp tu của các vị Thánh vừa trình bày, thì duy có pháp tu nhĩ-căn (tai nghe) của ngài Quán-Âm mới là viên-thông.

III. CHÚNG-SANH Ở THẾ-GIỚI TA-BÀ NHỜ NGHE NÓI PHÁP MỚI BIẾT ÐƯỜNG LỐI TU-HÀNH.

- Bạch Thế-Tôn, Phật ra đời ở thế-giới Ta-bà này, dùng âm-thanh nói pháp để giáo-hóa chúng-sanh. Chúng-sanh nhờ có nghe tiếng của Phật nói pháp mới biết đường lối tu-hành được thanh-tịnh. Hôm nay muốn đặng chánh-định, quyết phải nhờ có nghe rồi mới tu được.

IV. CÔNG-NĂNG CỦA NHĨ-CĂN (TAI NGHE).

- Bạch Thế-Tôn, như lời Ngài Quán-Âm nói: “Người ở chỗ thanh-vắng, mười phương đồng đánh trống, nhứt thời đồng được nghe”; nên duy có nhĩ-căn (tai nghe) mới được viên-thông. Mắt xem còn bị cách ngại; miệng, mũi, thân và ý cũng không bằng, chỉ có nhĩ-căn là hơn hết. Mặc dầu bị cách vách, hay tiếng ở xa gần, tai đều nghe được cả, nên nhĩ-căn mới thật là viên-thông.

- Âm-thanh khi có, khi không, còn cái nghe lúc nào cũng có. Khi không có tiếng, thế-gian nói rằng “không nghe”; thật ra chẳng phải “cái nghe” không có. Không tiếng, cái nghe không diệt; có tiếng, cái nghe cũng không sanh. Bởi cái nghe không có sanh và diệt, nên nó mới thật là thường.

- Dầu cho ở trong chiêm-bao, tâm không có suy-nghĩ phân-biệt, mà “cái nghe” ấy cũng không mất. ( Vì khi chiêm-bao vẫn còn nghe tiếng chày giã gạo). Cái nghe, nó thoát ngoài tâm niệm suy-nghĩ phân-biệt, nên thân và tâm (thức thứ sáu) đều không bằng (không bằng cái nghe).

V. NGÀI VĂN-THÙ QUỞ TRÁCH A-NAN HỌC NHIỀU MÀ KHÔNG TU.

- Nay chúng-sanh ở thế-giới Ta-bà này, nhờ có nghe nói chỉ dạy, nên mới hiểu biết tu-hành. Song chúng-sanh vì mê cái “tánh nghe thường còn” của mình, cứ chạy theo tiếng nói phân-biệt, cho nên mới bị lưu-chuyển.

- A-Nan, ông tuy học rộng nhớ nhiều, nhưng vì chạy theo vọng trần phân-biệt, nên không khỏi đọa lạc theo tà. Nếu ông xoay cái nghe trở vào tự-tánh, thì sẽ đặng hết vọng.

- A-Nan, ông nê chú-y nghe: tôi vân oai-thần của Phật, nói pháp-môn tu-hành này. Ông đem cái nghe của ông, nghe tất cả pháp-môn thâm-mật của chư Phật, nhiều như vi-trần, nếu các phiền-não dục-lậu không trừ, thì cái nghe càng thêm lầm-lỗi. Ông biết đem cái nghe của ông, nghe các pháp-môn của chư Phật, sao ông không đem cái nghe đó, trở lại nghe “tánh nghe” (chơn-tánh) của mình.

- A-Nan, cái “nghe” nó không tự-nhiên sanh, do có tiếng (thinh-trần) nên mới gọi rằng “nghe”. Nếu xoay cái nghe trở vào tự-tánh, không chạy theo tiếng, thế là thoát-ly được cái tiếng, (thinh-trần) lúc bấy giờ cái nghe này cũng không còn gọi tên là nghe nữa (vì không còn đối-đãi, nên chẳng có tên kêu gọi). Một căn (lỗ tai) đã được phản vọng trở về chơn rồi, thì cả sáu căn cũng đều được giải-thoát.

- A-Nan, các cảm-giác: thấy, nghe, hay, biết của ông đó, đều là hư-huyễn, như con mắt bị nhặm. Còn ba cõi sum-la vạn-tượng đây, cũng không thật, đều như hoa-đốm giữa hư-không. Khi cái thấy, nghe, hay, biết xoay trở lại chơn rồi, thì cũng như con mắt kia hết nhặm. Khi các vọng-trần tiêu hết, thì tâm ông được thanh-tịnh.

LƯỢC GIẢI

Vì vọng-động cho nên mới có thấy, nghe, hay, biết là năng phân-biệt. Bởi có năng phân-biệt, nên mới có cảnh bị phân-biệt là ba cõi muôn vật. Ðến khi năng phân-biệt hết, thì cảnh bị phân-biệt cũng tiêu, lúc bấy giờ chơn-tánh hiện-bày. Cũng như vì mắt nhặm nên mới thấy hoa-đốm, đến khi nhặm hết, thì hoa-đốm không còn, và chỉ còn con mắt trong sáng.

- Khi tâm hoàn-toàn thanh-tịnh rồi, thì cái trí-quang sáng-suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn-tâm của ông vừa tịch-tịnh lại vừa chiếu soi, bao-trùm khắp cả mười phương hư-không thế-giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh-vật hiện-tiền ở thế-gian này, cũng như là việc trong chiêm-bao. Khi ông được như thế rồi thì nàng M-đăng-dà ở trong mộng kia làm gì bắt được ông!

- A-Nan, dụ như các nhà huyễn-thuật, làm các thứ hình, tuy có thấy cử-động, nhưng cốt-yếu tại cái máy rút. Nếu máy kia thôi rút, thì các huyễn kia yên-lặng, đều không có tự-tánh.

- Sáu căn của ông cũng thế, gốc từ nơi tâm, vì vô-minh vọng-động thành ra sáu căn, nếu một căn được phản vọng về chơn rồi, thì sáu dụng kia (sáu giác-quan) đều không thành. Nếu trần-cấu còn thì ông vẫn còn ở địa-vị hữu-học (còn phải tu). Khi trần-cấu hết, thì tâm-tánh ông được hoàn-toàn sáng-suốt, đó là Phật.

- A-Nan, ông chỉ xoay cái nghe của mình trở về nghe chơn-tánh, không chạy theo phân-biệt vọng-trần bên ngoài, thì ông liền thành đạo vô thượng, đây thật là pháp tu viên-thông.

- Các đức Phật nhiều như số vi-trần cũng đều do một con đường này mà đến cửa Niết-bàn. Hiện-tại các vị Bồ-tát và những người tu-hành đời sau, đều y pháp-môn này mà thành đạo. Chính tôi cũng nhờ pháp-môn này mà được chứng quả, đâu phải một mình Ngài Quán-Âm tu mà thôi.

- Nay Phật dạy con lựa pháp-môn tu-hành, để cho người đời sau tu-hành mau thành đạo-quả, thì duy có pháp tu của Ngài Quán-Âm là hơn hết. Còn bao nhiêu các pháp tu-hành khác, đều nhờ oai-thần của Phật gia-hộ mới được thành-tựu. Các pháp ấy đều từ nơi sự-tướng mà dẹp trừ trần-lao, nên không phải là một phương-pháp trường-kỳ tu-tập.

- Kính lạy đức Như-Lai, xin Ngài gia-hộ cho chúng-sanh đời sau, đối với pháp-môn này không còn mê-lầm. Bạch Thế-Tôn, phương-pháp này rất là dễ tu, mau được thành đạo-quả, có thể đem dạy A-Nan và chúng-sanh đời sau, y theo đây tu-hành thì hơn các phương-pháp khác. Ðây là do lòng thành thật của con lựa-chọn như thế.

VI. CÁC VỊ NGHE PHÁP ÐƯỢC CHỨNG NGỘ.

A-Nan và đại-chúng nghe ngài Văn-Thù nói bà kệ rồi thì tâm tánh đều được khai-ngộ, đối với quả Phật Bồ-đề và đại Niết-bàn hiểu rất rành-rõ, cũng như người đi xa quê-hương, đã biết rõ con đường về nhà, nhưng chưa có dịp trở về. Trong đại-hội có vô số Thiên, Long, Bát-bộ, các hàng Nhị-thừa hữu-học và các vị Bồ-tát mới phát tâm, đều được xa-lìa trần-cấu, ngộ được chơn-tâm. Bà Tánh Tỳ-kheo-ni nghe bài kệ này rồi, đặng thành A-la-hán và vô lượng chúng-sanh đều phát Bồ-đề tâm.

LƯU Ý:

Từ trước đến đây là nói về phần y-ngộ đốn-tu. Từ đây về sau là nói về phần tiệm-tu.

VII. A-NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG-PHÁP ÐỂ ÐỘ CHÚNG-SANH ÐỜI SAU.

A-Nan cúi đầu lạy Phật kính-cẩn thưa rằng:

- Bạch Thế-Tôn, con nay đã hiểu pháp-môn tu-hành để thành Phật rồi; trên đường tu-hành con không còn lầm-lạc nữa. Nhưng con thường nghe Phật dạy:

“Mình chưa được độ mà muốn độ người, đó là tâm Bồ-tát. Còn mình được giác-ngộ hoàn-toàn, rồi giác-ngộ cho người, đó là việc làm của Như-Lai”.

- Nay con chưa được độ, mà phát tâm muốn độ tất cả chúng-sanh đời sau.

- Bạch Thế-Tôn, chúng-sanh đời sau cách Phật càng xa, lại gặp chúng tà-sư ngoại-đạo nói pháp nhiều như cát bụi. Vậy nếu có chúng-sanh phát tâm tu-hành, thì làm sao để tránh xa các ma-chướng, đối với con đường Bồ-đề, tâm không thối-lui?

VIII. PHẬT DẠY PHẢI TU GIỚI, ÐỊNH, HUỆ.

Phật khen A-Nan và dạy rằng:

- Ông hỏi phương-pháp tu-hành để độ chúng-sanh trầm-luân đời sau, vậy ông nên chú ý nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy.

- Này A-Nan, ông đã thường nghe ta dạy, người tu-hành quyết-định phải đủ ba điều cần-yếu:

1. Dùng giới-luật nhiếp-phục tự-tâm.

2. Nhơn giữ giới, tâm mới sanh định.

3. Nhơn định, tâm phát huệ.

- Ðây gọi là ba món tu vô-lậu. (Vì tu ba phép này, thì không còn sa-đọa).

LƯỢC GIẢI

Ngài An Pháp-sư nói: “Giới, Ðịnh, Huệ là cái cửa của người vào đạo, cũng là cửa ải trọng-yếu để vào thành Niết-bàn”.

Ngài La-thập Pháp-sư nói: “Trì giới mới hay chiết-phục được phiền-não, làm cho phiền-não yếu thế. Thiền-định như bốn cái núi để ngăn dòng nước phiền-não. Trí-huệ diệt được hết phiền-não”.

Trong kinh Niết-bàn nói: “Có phiền-não thì không trí-huệ, có trí-huệ thì không phiền-não”.

IX. NÓI VỀ ÐẠI-THỪA TÂM KHỞI, CÓ BỐN:

a. Ðoạn lòng dâm-dục

- A-Nan, tại sao dùng giới-luật để nhiếp phục tự-tâm? - Này A-Nan, nếu các chúng-sanh, trong tâm không còn nghĩ đến việc dâm-dục nữa, thì sẽ ra khỏi sanh-tử luân-hồi.

- Ông tu-hành quyết cầu ra khỏi trần-lao, nếu tâm dâm-dục không trừ, thì cảnh trần-lao không bao giờ ra khỏi. Dầu cho ông hiện-tiền đặng nhiều trí-huệ và thiền-định, cũng sẽ đọa vào ma-đạo. Thượng-phẩm làm chúa, trung-phẩm làm ma dân, hạ-phẩm làm ma nữ. Các loài ma kia cũng đều có đồ-đệ và tự xưng đã thành đạo vô-thượng Bồ-đề.

- Sau khi ta nhập-diệt rồi, vào đời mạt-pháp, chúng ma này rất thạnh-hành trong thế-gian, ưa làm việc tham-dục, xưng là thiện-tri-thức của chúng-sanh, khiến cho chúng-sanh đọa và hầm tà-kiến, mất con đường Bồ-đề.

- A-Nan, ông tu thiền-định, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trải bao nhiêu kiếp cũng không thể thành cơm được.

- Ông đem tâm dâm-dục để cầu quả Phật, dầu cho ông có được diệu-ngộ đi nữa, cũng không ra khỏi tam giới, vì gốc của nó là dâm thì làm sao ra khỏi sanh-tử luân-hồi được. Huống chi quả Niết-bàn của Phật, ông làm sao chứng được.

- Nên quyết-định phải đoạn-trừ dâm-cơ: trong tâm ngoài thân đều đoạn, cho đến cái biết đoạn cũng không còn, được như thế thì đối với quả Phật Bồ-đề, ông mới có hy-vọng!

- Vậy ông nên dạy người tu-hành, điều thứ nhứt là quyết-định phải đoạn trừ lòng dâm, đây là lời dạy sáng-suốt trong sạch của ta và của các đức Phật quá-khứ. Như lời ta dạy đây mới gọi là Phật nói, trái lại là Thiên-ma Ba-tuần nói.

LƯỢC GIẢI

            Ðây là Ðại-thừa giới, cao siêu và khó hơn Tiểu-thừa giới. Nếu tâm còn nghĩ tưởng đến dâm, sát, đạo và vọng, thế là phạm giới rồi.

            Tổn Ðơn-hà dạy: “Nếu người chưa tỏ-ngộ được chơn-tâm thanh-tịnh của mình, thì hột giống dâm còn ẩn-núp”. Nói cho dễ hiểu, nếu còn vô-minh, thì chơn-tâm sáng-suốt chẳng hiện, thế là giới-thể chưa thanh-tịnh.

            Phật-tử đọc đến đoạn này, chớ nên thấy khó mà nản lòng. Phải biết rằng việc tu-hành cũng như lóng nước để lâu quyết-định sẽ trong, và cũng như lột bẹ chuối, lột mãi sẽ đến lõi.

            Người tu-hành cũng thế, trước đoạn phần thô-thiển ngoài thân, sau dần dần trừ đến phần tế-nhị trong tâm, lâu ngày thành tánh quen, thì quyết-định có ngày sẽ được thanh-tịnh. Ðiều cốt-yếu là nên nhớ lời Phật dạy có bốn chữ “bất tùy phân-biệt”. Nghĩa là khi đối cảnh, không khởi vọng niệm phân-biệt, thì tham, sân, si không khởi. Tham, sân, si không khởi, thì sát, đạo, dâm chẳng sanh. Ðây là lối tu tắt của Ðại-thừa, để trở lại với chơn-tâm thanh-tịnh.

b. Ðoạn lòng sát-hại.

- A-Nan, nếu các chúng-sanh trong tâm không nghĩ tưởng đến việc sát-hại, thì không còn bị sanh-tử luân-hồi nữa. Ông tu-hành quyết cầu ra khỏi trần-lao, nếu ông không đoạn trừ tâm sát-hại, thì cảnh trần-lao không bao giờ ra khỏi. Ðầu cho hiện-tiền ông được nhiều trí-huệ, thì ông chỉ đọa vào thần-đạo. Bực thượng làm Ðại-lực-quỉ, bực trung làm Phi-hành-dạ-xoa và các loài quỷ soái, bực hạ làm Ðịa-hành La-sát và các quỉ thần. Các loài quỷ thần này cũng có đồ-đệ, đều tự cho mình thành đạo vô-thượng.

- Sau khi ta diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, các loài quỷ thần này rất thạnh-hành trong thế-gian, và tuyên-bố rằng: “Ăn thịt cũng được đạo Bồ-đề”. A-Nan, trước kia ta cho các ông ăn ngũ tịnh-nhục, là vì ở nhằm địa-phương đất chai, nhiều đá sỏi, không trồng rau cải được, nên ta tạm cho các ông dùng. Sau khi ta diệt-độ rồi, tại sao những người ăn thịt chúng-sanh, mà cũng xưng là tăng-lữ.

LƯỢC GIẢI

Trong kinh Lăng-Già, Phật dạy ngài Ðại-Huệ Bồ-Tát: “Ta trước kia phương-tiện cho các ông ăn năm thứ thịt hoặc mười thứ, hôm nay tất cả đều cấm tuyệt”.

- A-Nan, những người ăn thịt, dầu cho có đặng tâm trí khai-ngộ, cũng thành quỷ Ðại-la-sát, đến khi mãn kiếp quỷ La-sát rồi, quyết-định phải trầm-luân trong biển khổ sanh-tử. Giết hại ăn thịt lẫn nhau, thì làm sao ra khỏi sanh-tử luân-hồi được.

- A-Nan, ông tu thiền-định, nếu không trừ tâm sát-hại mà muốn cầu được đạo, thì cũng như người tự bịt hai lỗ tai của mình, la tiếng thiệt lớn, mà muốn cho mọi người không nghe, thì không thể được.

- A-Nan, ông nên dạy người tu-hành, điều thứ hai là quyết-định phải đoạn trừ lòng sát-hại. Ðây là lời sáng-suốt trong sạch của ta cũng là lời các đức Phật quá-khứ đã chỉ dạy.

- Như lời ta dạy đây mới gọi là Phật nói, trái lại là Thiên-ma Ba-tuần nói.

c. Ðoạn trừ trộm cưóp.

- A-Nan, nếu các chúng-sanh, trong tâm không nghĩ tưởng đến việc trộm cướp, thì không còn sanh-tử luân-hồi nữa. Các ông tu-hành quyết cầu ra khỏi cảnh trần-lao, nếu tâm trộm cướp không trừ, thì không bao giờ ra khỏi.

- Dầu cho hiện-tiền ông đặng nhiều-huệ hay thiền-định, nếu không đoạn tâm trộm cướp, thì quyết đọa vào tà-đạo. Bực thượng làm loài tinh-linh, bực trung làm loài yêu-mị, bực hạ làm người tà, bị các loài tinh yêu này nhập (dựa). Bọn này cũng có đồ-đệ, đều tự xưng rằng: “đặng đạo vô-thượng”.

- Sau khi ta diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, chúng tinh-yêu tà-mị này rất thạnh-hành trong đời, tự xưng là thiện-trí-thức, dối gạt phỉnh-phờ người, khiến cho người mất tâm chánh-tín; chúng nó đi đến đâu, thì làm cho người tiêu hao tài-sản đến đó.

- A-Nan, ông tu thiền-định, nếu không đoạn trừ tâm trộm cướp, mà muốn cầu cho được đạo quả, thì cũng như người rót nước vào chén bể, mà muốn cho đầy, dầu trải bao nhiêu kiếp cũng không thể đầy được. Ông nên dạy người tu-hành, điều thứ ba là quyết-định phải đoạn trừ tâm trộm cướp. Ðây là lời nói sáng-suốt trong sạch của ta cũng như các đức Phật quá-khứ. Ðúng như lời ta dạy gọi là Phật nói, trái lại là Thiên-ma Ba-tuần nói.

d. Ðoạn trừ vọng-ngữ.

- A-Nan, nếu các chúng-sanh, đã giữ hoàn-toàn ba hạnh trên là không sát, đạo, dâm rồi, mà còn đại vọng-ngũ, thì tâm cũng không thanh-tịnh, mất hột giống Phật, thành ma ái-kiến. Thế nào là đại vọng-ngữ? Nghĩa là: chưa đặng đạo nói mình đặng đạo, chưa chứng quả nói mình chứng quả. Ðối với người đời, nói: “ta đã chứng Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát và Phật”, để trông cầu người lạy cúng. Những người nói dối như thế, làm tiêu-diệt hột giống Phật, sẽ đọa vào trong biển khổ. Cũng như cây Ða-la khi đã bị chặt đứt rồi (như cây cau xứ ta) thì không thể mọc chồi đâm tượt được.

- A-Nan, ta có dạy các vị Bồ-tát và A-la-hán: “Sau khi ta diệt-độ rồi, các ông phải thị-hiện thân hình, trong đời mạt-pháp để cứu độ các chúng-sanh đang trầm-luân, làm thầy sa-môn, cư-sĩ, vua, quan, đồng-nam, đồng-nữ, cho đến hiện đàn-bà góa, kẻ dâm-nữ, người gian-giảo, kẻ trộm cướp, người hàng thịt, kẻ buôn-bán, để lẫn-lộn trong từng lớp người, chung một nghề-nghiệp, đặng giáo-hóa chúng-sanh trở về chánh-đạo”.

- Nhưng các vị ấy quyết chẳng bao giờ nói: “Ta đây thật là Bồ-tát hoặc A-la-hán v.v…” hay tỏ ra một vài cử-chỉ gì làm tiết-lộ sự bí-mật, để cho người ta biết mình là Thánh-nhơn thị-hiện. Chỉ trừ sau khi mạng-chung rồi, các vị ấy mới âm-thầm để lại một vài di tích cho người biết thôi.

LƯỢC GIẢI

Các Phật-tử đọc đến đoạn này nên chú-ý: Phật và Bồ-tát thị-hiện, chúng ta không thể biết được; nếu chúng ta biết được thì đó không phải thiệt Phật hay Bồ-tát. Chỉ trừ khi nào các vị ấy cởi bỏ xác phàm, mới lưu lại một vài di-tích, lúc bấy giờ chúng ta mới biết được. Nhưng khi biết, thì không còn gặp các Ngài nữa.

Như Tổ Ðạt-ma hiện thân đến Trung-quốc, vua Lương-Võ-Ðế không biết; đến khi biết được Ngài là Thánh thì không còn thấy được Ngài.

Vậy hiện nay những người tự xưng mình là Phật hay Bồ-tát v.v… giáng-thế, thì căn-cứ vào đoạn kinh này, chúng ta thấy rõ-ràng và chắc-chắn không phải thiệt Phật hay Bồ-tát rồi, chớ nên tin.

- A-Nan, chính thật Bồ-tát hay A-la-hán thị-hiện, mà còn không cho người biết, tại sao những người phàm-phu lại dám mạo xưng là Phật, Bồ-tát v.v… Cũng như người cùng-đinh, mà mạo xưng mình là Ðế-vương, thì sẽ bị tội tru-diệt.

- A-Nan, nếu người tu-hành, không đoạn trừ đại vọng-ngữ, mà muốn được đạo, thì cũng như người lấy đồ hôi tanh, tô đắp thành cái bình chiên đàn, muốn cho thơm chừng nào lại càng hôi chừng nấy. Cái nhơn đã chẳng ngay, thì kết-quả phải cong vạy. Những người như thế mà cầu quả Phật Bồ-đề, thì cũng như người muốn tự cắn cái rún của mình, làm sao cắn được!

- A-Nan, ông nên dạy người tu-hành điều thứ tư là quyết-định phải đoạn trừ đại vọng-ngữ. Ðây là lời nói sáng-suốt trong-sạch của ta, và các đức Phật quá-khứ chỉ dạy. Ðúng như lời ta dạy đây thì gọi là Phật nói, trái lại thì Thiên-ma Ba-tuần nói.

LƯỢC GIẢI

Bốn đoạn trên Phật ân-cần nhắc nhở, nói đi lặp lại nhiều lần. Phật-tử chúng ta nên ghi xương tạc dạ những lời vàng ngọc chỉ dạy rất thống-thiết của đức Từ-phụ.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ VII)
BÀI THỨ 14: PHẬT DẠY TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712