Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Bài Thứ 14: Phật Dạy Trì Chú Lăng Nghiêm

BÀI THỨ MƯỜI BỐN

I.          PHẬT DẠY TRÌ-CHÚ LĂNG-NGHIÊM

II.        A-NAN CẦU PHẬT NÓI LẠI THẦN-CHÚ

III.       PHẬT PHÓNG QUANG NÓI THẦN-CHÚ

IV.       CÔNG-NĂNG CỦA THẦN-CHÚ

V.        CÁC VỊ THIỆN-THẦN PHÁT TÂM BẢO-HỘ NGƯỜI TRÌ-CHÚ

VI.       ÔNG A-NAN HỎI PHẬT: TU-HÀNH PHẢI TRẢI QUA BAO NHIÊU ÐỊA-VỊ

VII.     PHẬT DẠY BA MÓN TIỆM THỨ

VIII. TU-HÀNH PHẢI TRẢI QUA NĂM MƯƠI LĂM ÐỊA-VỊ MỚI ÐẾN QUẢ PHẬT

IX.       NĂM MƯƠI MÓN MA-CHƯỚNG (NGŨ ẤM MA)

X.        MƯỜI MÓN MA VỀ SẮC-ẤM:

            1.         Thân-thể không bị chướng-ngại.

            2.         Lượm bỏ trùng sán trong thân.

            3.         Nghe trong hư-không có tiếng nói pháp.

            4.         Thấy Phật hiện và hoa sen nở.

            5.         Thấy các vật báu đầy cả hư-không.

            6.         Thấy ban đêm như ban ngày.

            7.         Thấy thân-thể không biết đau.

            8.         Thấy cảnh-giới Phật hiện khắp.

            9.         Bao đêm thấy nghe được phương xa.

            10.       Thân hình biến-hóa, nói pháp thông-suốt.

BÀI THỨ MƯỜI BỐN

I.          PHẬT DẠY TRÌ-CHÚ LĂNG-NGHIÊM

- A-Nan, người tu-hành phải gìn-giữ bốn điều luật-nghi cần yếu: dâm, sát, đạo, vọng cho trong sạch, cũng như băng tuyết, nơi tâm không khởi vọng-niệm, duyên theo ngoại-cảnh, thì chúng ma kia không làm sao sanh được (vì trong tâm vọng-động, nên ngoại-ma mới ứng).

- Nếu ngưòi nào nghiệp-chướng nặng nề không thể trừ được, ông nên dạy họ chí-tâm trì chú Lăng-Nghiêm này, thì các nghiệp-chướng đều tiêu-diệt. Bằng chứng là ông cùng với nàng Ma-đăng-dà, tình ân-ái làm chồng vợ đã khắn-khít nhau từ nhiều kiếp, đâu phải mới một đời này; nhờ thần-chú Lăng-Nghiêm mà nàng Ma-đăng-dà nguồn tình khô-cạn và được thành A-la-hán.

- Ma-đăng-dà là kẻ dâm-nữ, không có tâm tu-hành còn được thành quả Thánh, huống chi các ông là bực Thinh-văn, có chí cầu đạo vô thượng, lại trì-tụng chú này, thì quyết-định thành Phật rất dễ, cũng như thuận gió tung bụi, chẳng có khó gì.

LƯỢC GIẢI

Trong đoạn kinh này, Phật dạy phương-pháp tu-hành để thành Phật, tóm lại có ba điều:

1.  Bất tùy phân-biệt:

- Nghĩa là, khi đối cảnh không khởi vọng-tâm phân-biệt, thì tham, sân, si chẳng sanh. Tham, sân, si không sanh thì các nghiệp sát, đạo, dâm chẳng tạo. Nghiệp nhơn không tạo thì quả-báo chẳng có. Nói tóm lại là “xoay các cảm-giác trở về chơn-tâm”, không duyên theo trần-cảnh thì vọng-niệm không sanh, vọng không sanh thì chơn-tâm hiện bày.

- Tổ-sư có dạy: “Kiến sắc phi can sắc, văn thinh bất thị thinh”; nghĩa là thấy sắc không can hệ gì đến sắc, nghe tiếng cũng không dính-líu gì đến tiếng. Hay như câu: “Ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết”: Gặp sắc đẹp hay nghe tiếng hay, như hoa trồng trên đá (không dính-líu gì); thấy tài-lợi và danh-vọng như bụi rớt trong con mắt. Nếu người đến trình-độ này rồi, thì dầu vào thanh-lâu hay tửu-điếm cũng đều là, đạo-tràng thanh-tịnh, (dâm phòng tửu tứ vô phi thanh-tịnh đạo-tràng).

2.  Trì-giới:

- Phải giữ-gìn giới-luật, trong tâm ngoài thân đều thanh-tịnh như băng tuyết.

3.  Trì chú Lăng-Nghiêm:

- Nếu người nào nghiệp-chướng nặng-nề, thì phải trì-tụng chú Lăng-Nghiêm sẽ mau đặng thành đạo-quả. Trong ba pháp tu này, bực thượng-căn, trung-căn và hạ-căn đều tu được cả. Thật là lòng từ-bi của Phật vô lượng, mưa pháp khắp trùm, cỏ cây lớn nhỏ đều được thấm-nhuần.

II.        A-NAN CẦU PHẬT NÓI LẠI THẦN-CHÚ

            Ông A-Nan đứng dậy đảnh-lễ Phật và kính-cẩn bạch rằng:

- Con từ khi xuất-gia đến nay, vì ỷ-lại lòng thương yêu của Phật, chỉ lo học rộng nghe nhiều, chẳng chuyên tu-tập, nên chẳng chứng được đạo-quả, thành thử phải bị tà-thuật của Phạm-thiên bắt; trong tâm con tuy thông-suốt mà năng-lực chưa được tự-do, nên còn phải nhờ thần-chú Lăng-Nghiêm của Phật mới được giải-thoát, nhưng chính con chưa được nghe, cúi xin đức Thế-Tôn từ-bi nói lại, khiến cho những người tu-hành hiện-tại và chúng-sanh luân-hồi đời sau, nhờ thần-chú này mà thân-tâm được giải-thoát.

III.       PHẬT PHÓNG QUANG NÓI THẦN-CHÚ

            Khi đó từ nơi nhục-kế (đảnh) của Phật, phóng ra hào-quang trăm báu; trong hào-quang xuất-hiện ra hoa sen báu ngàn cánh. Trong hoa sen có đức Hóa-Phật ngồi, trên đảnh Ngài phóng ra mười đạo hào-quang sáng-suốt trăm báu. Trong mỗi đạo hào-quang đều có thị-hiện vô-số thần Kim-cang: vị bưng núi, vị cầm bảo-sử v.v… đứng khắp cả hư-không. Ðại chúng trông thấy vừa mừng vừa sợ, đều cầu Phật thương-xót chở-che và nhứt tâm chờ nghe Phật nói thần-chú.

            Phật nói thần-chú:

(ÐỆ NHỨT)

Nam mô tát đát tha, tô già đa da, a ra ha đế tam miệu tam bồ đà tả. Tát đát tha, Phật đà câu chi sắc ni sam.

Nam mô tát bà, bột đà bột địa, tát đá bệ tệ.

Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đà câu tri nẩm. Sa xá ra bà, ca tăng già nẩm.

Nam mô lô kê a la hán đá nẩm.

Nam mô tô lô đa ba na nẩm.

Nam mô Sa yết rị đà già di nẩm.

Nam mô lô kê tam miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.

Nam mô đề bà ly sắc nỏa.

Nam mô tất đà da, tỳ địa da, đà ra ly sắc nỏa. Xá ba noa yết ra ha, sa ha sa ra ma tha nẩm.

Nam mô bạt ra ha ma ni.

Nam mô nhân đà ra da.

Nam mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, sa hê dạ da.

Nam mô bà già bà đế. Na ra dã noa da. Bàn giá ma ha tam mộ đà ra.

Nam mô tất yết rị đa da.

Nam mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ðịa rị bát lạt na già ra. Tỳ đà ra ba, noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.

Nam mô tất yết rị đa da.

Nam mô bà già bà đế. Ða tha già đá câu ra da.

Nam mô bát đầu ma câu ra da.

Nam mô bạc xà ra câu ra da.

Nam mô ma ni câu ra da.

Nam mô già xà câu ra da.

Nam mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na. Ba ra ha ra, noa ra xà da, đá tha già đa da.

Nam mô bà già bà đế.

Nam mô a di đa bà da, đá tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

Nam mô bà già bà đế, a sô bệ da, đá tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

Nam mô bà già bà đế, bệ sa xà da, câu lô phệ trụ rị da, bác ra bà ra xà da, đa tha già đa da.

Nam mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đá tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

Nam mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu da duệ, đá tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

Nam mô bà già bà đế, lạt đác na kê đô ra xà da, đá tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da, đế biều, nam mô tát yết rị đa, ế đàm bà già bà đa, tát đát tha già đô sắc ni sam, tát đát đa bác đác lam.

Nam mô a bà ra thị đam, bát ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha, yết ca ra ha ni, bạt ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nãnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra, đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẩm, yết ra ha sa ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng sa na yết rị, a sắt tra băng xá đế nẩm, na xoa sát đát ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắt tra nẩm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô rô nể bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đát ra, a cát ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra,

ma ha bác ra chiến trì,

ma ha điệp đa,

ma ha đế xà,

ma ha thuế đa xa bà ra,

ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nễ, a rị da đa ra, tỳ rị câu tri, thệ bà tỳ xà da, bạt xà ra ma lễ để, tỳ xá rô đa, bột đằng võng ca, bạt xà ra chế hát na a giá,

ma ra chế bà bát ra chất đa, bạt xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma rô ba,

ma ha thuế đa, a rị da đa ra,

ma ra bà ra, a bát ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra câu ma rị, câu lam đà rị, bạt xà ra hát tát đa giá, tỳ địa gia càn giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ rô giá na câu rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, rô xà na, bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra, sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, sa bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na ma ma toả.

(ÐỆ NHỊ)

Ô hồng rị sắc yết noa, bác lạt xá tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam.

Hổ hồng, đô lô ung, chiêm bà na.

Hổ hồng, đô lô ung, tất đam bà na.

Hổ hồng, đô lô ung, ba ra sắc địa da, tam bác xoa noa yết ra.

Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hát ra sát sa, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra.

Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẩm, yết ra ha, sa ha tát ra nẩm, tỳ đằng băng tát na ra.

Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm, tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà cát rị,

ma ha sa ha tát ra, bột thọ sa ha tát ra thất rị sa, câu tri sa ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca,

ma ha bạt xà rô đà ra, đế rị bồ bà na, mạn trà ra, ô hồng, sa tất đế bạc bà đô, mạ mạ, ấn thố na mạ mạ tả.

(ÐỆ TAM)

Ra xà bà dạ,

chủ ra bạt dạ,

a kỳ ni bà dạ,

ô đà ca bà dạ,

tỳ sa bà dạ,

xá tát đa ra bà dạ,

bà ra chước yết ra bà dạ,

đột sắt xoa bà dạ,

a xá nễ bà dạ,

a ca ra mật rị trụ bà dạ,

đà ra ni bộ di kiếm,

ba già ba đà bà dạ

ô ra ca bà đa bà dạ,

lạt xà đàn trà bà dạ,

na già bà dạ,

tỳ diều đát bà dạ,

tô ba ra noa bà dạ,

dược xoa yết ra ha,

ra xoa tư yết ra ha,

tất rị đa yết ra ha,

tỳ xá giá yết ra ha,

bộ đa yết ra ha,

cưu bàn trà yết ra ha,

bổ đan na yết ra ha,

ca tra bổ đan na yết ra ha,

tất càn độ yết ra ha,

a bá tất ma ra yết ra ha,

ô đàn ma đà yết ra ha,

xa dạ yết ra ha,

hê rị bà đế yết ra ha,

xã đa ha rị nẫm,

yết bà ha rị nẫm,

rô địa ra ha rị nẫm,

mang sa ha rị nẫm,

mê đà ha rị nẫm,

ma xà ha rị nẫm,

xà đa ha nị nữ, thị tỷ đa ha rị nẫm,

tỳ đa ha rị nẫm,

bà đa ha rị nẫm,

a du giá ha rị nữ,

chất đa ha rị nữ,

đế sam tát bệ sam,

tát bà yết ra ha nẫm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

ba rị bạt ra giả ca cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

trà diễn ni cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

ma ha bát du bát đát dạ, rô đà ra cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

na ra dạ noa cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

đát đỏa già rô trà tây cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

ma ha ca ra ma đát rị già noa cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ dị, kê ra dạ di,

ca ba rị ca cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

xà da yết ra, ma độ yết ra, tát bà ra tha sa đạt na cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

giả đốt ra bà kỳ nễ cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

tỳ rị dương cật rị tri, nan đà kê sa ra già noa bát đế, sách hê dạ, cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

na yết na xá ra bà noa cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di, a la hán cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

tỳ đa ra già cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

bạt xà ra ba nễ, cụ hê dạ, cụ hê dạ, ca địa bát đế cật rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,

ra xoa võng, bà già phạm, ấn thố na ma ma tả.

(ÐỆ TỨ)

Bà già phạm, tát đát đa bát đát ra,

Nam mô túy đô đế, a tất đa na ra lạt ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra, thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà.

Hổ hồng. Hổ hồng, phán tra, phán tra, phán tra, phán tra, phán tra, sa ha,

hê hê phán,

a mâu ca da phán,

a ba ra đề ha đa phán,

bà ra ba ra đà phán,

a tố ra tỳ đà ra ba ca phán,

tát bà đề bệ tệ phán,

tát bà na già tệ phán,

tát bà dược xoa tệ phán,

tát bà kiền thát bà tệ phán,

tát bà bổ đan na tệ phán,

ca tra bổ đan na tệ phán,

tát bà đột lang chỉ đế tệ phán,

tát bà đột sáp tỷ lê cật sắt đế tệ phán,

tát bà thập bà rị tệ phán,

tát bà a bá tất ma lê tệ phán,

tát bà xá ra bà noa tệ phán,

tát bà địa đế kê tệ phán,

tát bà đát ma đà kế tệ phán,

tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phán,

xà dạ yết ra, ma độ yết ra, tát bà ra tha sa đà kê tệ phán;

tỳ địa dạ giá rị tệ phán,

giả đô ra phược kỳ nễ tệ phán,

bạt xà ra câu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phán,

ma ha ba ra đinh dương xoa kỳ rị tệ phán,

bạt xà ra thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phán,

ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.

Nam mô sa yết rị đa dạ phán,

tỷ sắt noa tỳ duệ phán,

bột ra ha mâu ni duệ phán,

a kỳ ni duệ phán,

ma ha yết rị duệ phán,

yết ra đàn trì duệ phán,

miệt đát rị duệ phán,

lao đát rị duệ phán,

giá văn trà duệ phán,

yết la ra đát rị duệ phán,

ca bát rị duệ phán,

a địa mục chất đa, ca thi ma xá na, bà tư nễ duệ phán,

diễn cát chất, tát đỏa bà tả ma ma ấn thố na ma ma tả.

(ÐỆ NGŨ)

Ðột sắt tra chất đa,

a mạt đát rị chất đa,

ô xà ha ra,

già bà ha ra,

rô địa ra ha ra,

bà sa ha ra,

ma xà ha ra,

xà đa ha ra,

thị tỷ đa ha ra,

bạt lược dạ ha ra,

kiền đà ha ra,

bố sử ba ha ra,

phả ra ha ra,

bà tả ha ra,

bát đa chất đa,

độ sắt tra chất đa,

lao đà ra chất đa,

dược xoa yết ra ha,

ra sát sa yết ra ha,

bế ệ đa yết ra ha,

tỳ xá dá yết ra ha,

bộ đa yết ra ha,

cưu bàn trà yết ra ha,

tất kiền đà yết ra ha,

ô đát ma đà yết ra ha,

xa dạ yết ra ha,

a bá tát ma ra yết ra ha,

trạch khư cách trà kỳ ni yết ra ha,

rị Phật đế yết ra ha,

xà di ca yết ra ha,

xá câu ni yết ra ha,

mụ đà ra nan địa ca yết ra ha,

a lam bà yết ra ha,

kiền độ ba ni yết ra ha,

thập phạt ra nhân ca hê ca,

trụy đế dược ca,

đát lệ đế dược ca,

giả đột thác ca,

ni đề thập phạt ra,

tỷ sam ma thập phạt ra,

bạc để ca,

tỷ để ca,

thất lệ sắt mật ca,

sa nễ bát đế ca,

tát bà thập phạt ra,

thất rô cát đế,

mạt đà bệ đạt rô chế kiếm,

a ỷ rô kiềm,

mục khư rồ kiềm,

yết rị đột rô kiềm,

yết ra ha yết lam,

yết noa du lam,

đạn đa du lam,

cật rị dạ du lam,

mạt ma du lam,

bạt rị thất bà du lam,

tỷ lật sắt tra du lam,

ô đà ra du lam,

yết tri du lam,

bạt tất đế du lam,

ô rô du lam,

thường già du lam,

hát tất đa du lam,

bạt đà du lam,

sa phòng áng già bát ra trượng già du lam,

bộ đa tỷ đá trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột rô ca, kiến đốt rô cát tri bà lộ đa tỳ, tát bát rô ha lăng già,

thu sa đát ra,

sa na yết ra,

tỳ sa dụ ca,

a kỳ ni ô đà ca,

mạt ra bệ ra,

kiến đá ra,

a ca ra mật rị đốt, đát liễm bộ ca,

địa lật lạt tra, tỷ rị sắt chất ca,

tát bà na câu ra, tứ dẫn già tệ, yết ra rị dược xoa, đát ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, sa bệ sam,

tất đát đa bát đát ra,

ma ha bạt xà rô sắt ni sam,

ma ha bát lại trượng kỳ lam, dạ ba đột đà, xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca rô di, đế thù bàn đàm ca rô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca rô di, đá điệt tha.

Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nễ, bạt xà ra báng ni phán. Hổ hồng, đô rô ung phán, sa bà ha.

LƯỢC GIẢI

Tổ Ðơn-Hà nói: Từ xưa đến nay không có ai dịch nghĩa thần-chú. Vì có năm nguyên nhân:   

     1.         Lời bí-mật của Phật, duy có Phật với Phật mới biết, ngoài các vị Thánh cũng không thể biết được.

     2.         Vì một chữ hoặc một câu có hàm vô-số nghĩa.

     3.         Hoặc tên của các vị quỉ thần, kêu gọi các vị liền đến bảo-hộ người tu.

     4.         Mật ấn của chư Phật, kẻ âm người dương đều phải tuân theo, cũng như ấn-sắc của nhà vua.

     5.         Người chí tâm tụng trì, sẽ được diệt trừ tội nặng và mau chứng quả Thánh.

Các nhà phiên âm có khác, song hành-giả chí-tâm trì tụng một bổn nào cũng đều được hiệu-quả.

IV.       CÔNG-NĂNG CỦA THẦN-CHÚ

- A-Nan, mười phương các đức Như-Lai đều nhờ “tâm chú” này mà hàng-phục các ma, ngăn dẹp ngoại-đạo, được thành quả Phật. Mười phương chư Phật đều nhờ “tâm chú” này mà cứu-độ tất cả chúng-sanh khỏi các tai-nạn khổ-não như thủy-tai, hỏa-tai, cơ-cẩn v.v… và cứu-độ chúng-sanh ở địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh, đều được giải-thoát.

- Các ông là hàng Thinh-văn hữu-học chưa khỏi luân-hồi, phát tâm cầu quả A-la-hán, nếu không trì chú này, mà muốn cho khỏi các ma-chướng thì không thể được.

- Sau khi ta diệt-độ, các chúng-sanh đời sau, nếu có người trì tụng chú này, thì các tai-nạn: thủy-tai, hỏa-hoạn, thuốc độc, độc trùng, ác-thú, yêu-tinh, quỉ-quái v.v… đều chẳng hại được.

- Nếu người phạm tội ngũ-nghịch, phá trai, phạm giới, khi chí tâm trì chú này, thì các tội đều tiêu, cũng như nước nóng là giá tan. Những người không con, muốn cầu con, tụng chú này sẽ được con, cầu trường thọ v.v… được trường thọ, mỗi mỗi đều như ý nguyện.

V.        CÁC VỊ THIỆN-THẦN PHÁT TÂM BẢO-HỘ NGƯỜI TRÌ-CHÚ

            Khi Phật nói thần-chú này rồi, trong hội có vô số thần Kim-cang, đồng lạy Phật và phát lời thệ-nguyện:

- Chúng con xin sẽ thành-tâm bảo-hộ người trì chú này.

Lại có vô số các vị chư Thiên và Thánh Thần đều đứng dậy lạy Phật và phát-nguyện bảo-hộ người trì chú này, khiến cho họ khỏi các ma-chướng, mau đặng thành đạo vô-thượng Bồ-đề.

Lại có vô số vị Kim-cang-tạng Bồ-tát, đồng đứng trước Phật, phát lời thệ rằng:

- Con tu-hành chẳng chịu vào Niết-bàn, nguyện ở lại đời sau để theo bảo-hộ người tu-hành, không cho các loài ác-ma đến nhiễu-hại, chúng nó phải ở cách xa người tu ngoai mười do-tuần. Nếu có các loài ác-ma nào lai-vãng đến người trì chú này, thì con dùng cây báo-sử đánh nó nát như bụi, để cho người tu-hành được như nguyện.

VI.       ÔNG A-NAN HỎI PHẬT: TU-HÀNH PHẢI TRẢI QUA BAO NHIÊU ÐỊA-VỊ

            A-Nan đứng dậy lạy Phật mà thưa rằng:

- Bạch Thế-Tôn, người tu-hành từ khi phát tâm cho đến thành Phật, phải trải qua bao nhiêu địa-vị, và thứ lớp tu-hành như thế nào? Xin Phật từ-bi chỉ dạy cho kẻ mê-muội này.

Phật khen ông A-Nan và dạy rằng:

- Ta sẽ vì các ông và chúng-sanh đời sau cầu quả Ðại-thừa, chỉ dạy con đường tu-hành từ địa-vị phàm-phu, cho đến khi vào đại Niết-bàn, vậy các ông phải chăm-chú nghe ta chỉ dạy.

- A-Nan, các ông phải biết: Từ nơi chơn-tâm thanh-tịnh, rời các danh-tướng, không có thế-giới và chúng-sanh, vì vọng-động nên có sanh, nhơn sanh có diệt; sanh diệt cũng đều là vọng, diệt hết vọng gọi là chơn, thế gọi là Vô-thượng Bồ-đề và đại Niết-bàn là hai quả chuyển-y của Như-Lai vậy.

VII.     PHẬT DẠY BA MÓN TIỆM THỨ

- A-Nan, ông nay muốn tu-hành để thành Phật, thì phải tuần-tự y theo ba món tiệm-thứ này, mới có thể diệt trừ được gốc-rễ của loạn-tưởng, cũng như người muốn súc sạch cái bình để đựng đồ quí, thì trước phải đổ đồ độc ra, kế dùng tro chùi rửa, sau dùng nước nóng và chất thơm rửa lại thiệt sạch, rồi mới có thể đựng vị cam-lồ được.

- Ba món tiệm-thứ là:

1. Trừ các trợ-duyên bên ngoài:

- Ăn, không nên ăn uống đồ không thích hợp với người tu-hành, như ăn thịt, uống rượu và ngũ-vị-tân v.v… Ngũ-vị-tân, ăn sống nó tăng-trưởng tánh nóng giận, ăn chín hay sanh tham-dục, tụng kinh trì chú chẳng hiệu-nghiệm, Thánh Thần không bảo-hộ. Còn chỗ tu thì phải tìm chỗ nào cho hợp với hoàn-cảnh của người tu-hành.

            2. Trừ các chánh-nhơn bên trong:

- Cốt-yếu là hành-giả phải nghiêm-trì tịnh-giới, không dâm, sát, đạo và vọng, gìn-giữ ngoài thân không phạm, trong tâm không động, thân và tâm đều thanh-tịnh như băng tuyết.

            3. Trừ các nghiện hiện-tiền:

- Khi tiếp-xúc với trần-cảnh, không khởi vọng-niệm phân-biệt theo sáu trần, xoay các cảm-giác trở về bản-tâm thanh-tịnh. Do ngoài không duyên theo trần-cảnh, trong sáu căn không vọng-động, đồng một thể thanh-tịnh, nên mười phương thế-giới đều được thanh-tịnh sáng-suốt; cũng như trong ngọc lưu-ly có hàm-chứa mặt trăng sáng. Hành-giả lúc bấy giờ thân tâm thơ-thới, chứng đặng vô-sanh pháp-nhẫn, mười phương chư Phật đều hiện trong tâm người ấy. Từ đây hành-giả lần lần tăng-tiến tu-hành, tiến lên các quả Thánh.

VIII.    TU-HÀNH PHẢI TRẢI QUA NĂM MƯƠI LĂM ÐỊA-VỊ MỚI ÐẾN QUẢ PHẬT

- A-Nan, người tu-hành khi ái-dục khô-khan, sáu căn không còn chạy theo sáu trần nhiễm-trước, lúc bấy giờ chỉ có trí-huệ khô-khan, chưa thấm-nhuần nước pháp của Phật. Ðây là địa-vị đầu tiên tên Càn-huệ-địa (huệ khô), lần lần tấn tu vào địa-vị Thập-tín (mười món tín):

1.        Tín-tâm trụ.

2.        Niệm-tâm trụ.

3.        Tinh-tấn-tâm.

4.        Huệ-tâm-trụ.

5.        Ðịnh-tâm-trụ.

6.        Bất-thối-tâm.

7.        Hộ-pháp-tâm.

8.        Hồi-hướng-tâm.

9.        Giới-tâm-trụ.

10.      Nguyện-tâm-trụ.

MÃN ÐỊA-VỊ THẬP-TÍN ÐẾN THẬP-TRỤ

1.        Phát-tâm-trụ.

2.        Trị-địa-trụ.

3.        Tu-hành-trụ.

4.        Sanh-quí-trụ.

5.        Phương-tiện cụ-túc-trụ.

6.        Chánh-tâm-trụ.

7.        Bất-thối-trụ.

8.        Ðồng-chơn-trụ.

9.        Pháp-vương-tử-trụ.

10.      Quán-đảnh-trụ.

MÃN THẬP-TRỤ ÐẾN THẬP-HẠNH

1.        Hoan-hỷ-hạnh.

2.        Nhiêu-ích-hạnh.

3.        Vô-sân-hận-hạnh.

4.        Vô-tận-hạnh.

5.        Ly si-loạn-hạnh.

6.        Thiện-hiện-hạnh.

7.        Vô-trước-hạnh.

8.        Tôn-trọng-hạnh.

9.        Thiệp-pháp-hạnh.

10.      Chơn-thật-hạnh.

MÃN THẬP-HẠNH ÐẾN THẬP-HỒI-HƯỚNG

1.        Cứu-độ nhứt thế chúng-sanh, ly chúng-sanh tướng hồi-hướng.

2.        Bất-hoại hồi-hướng.

3.        Ðẳng nhứt thế Phật hồi-hướng.

4.        Chí nhứt thế xứ hồi-hướng.

5.        Vô tận công-đức tạng hồi-hướng.

6.        Tùy-thuận bình-đẳng thiện-căn hồi-hướng.

7.        Tùy-thuận đẳng-quán nhứt-thế chúng-sanh hồi-hướng.

8.        Chơn-như tướng hồi-hướng.

9.        Vô phược giải-thoát hồi-hướng.

10.      Pháp-giới vô lượng hồi-hướng.

MÃN THẬP-HỒI-HƯỚNG ÐẾN TỨ-GIA-HẠNH

                        1.         Noãn-địa.

                        2.         Ðảnh-địa.

                        3.         Nhẫn-địa.

                        4.         Thế đệ-nhứt-địa.

MÃN TỨ-GIA-HẠNH ÐẾN THẬP-ÐỊA

                        1.         Hoan-hỷ-địa.

                        2.         Ly-cấu-địa.

                        3.         Phát-quang-địa.

                        4.         Diệm-huệ-địa.

                        5.         Nan-thắng-địa.

                        6.         Hiện-tiền-địa.

                        7.         Viễn-hành-địa.

                        8.         Bất-động-địa.

                        9.         Thiện-huệ-địa.

                        10.       Pháp-vân-địa.

            (Khi mãn Thập-địa đến địa-vị Ðẳng-giác, qua Ðẳng-giác đến Diệu-giác tức là Phật. Trừ địa-vị Càn-huệ ra, thì từ địa-vị Thập-tín, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng, Tứ-gia-hạnh, Thập-địa và Ðẳng-giác, nghĩa là phải trải qua 55 địa-vị này mới đến quả Phật.

Song trong khi trải qua 55 địa-vị này, phải gặp 50 món ma là những điều nguy-hiểm nhứt trên đường tu-hành).

IX.       NĂM MƯƠI MÓN MA-CHƯỚNG (NGŨ ẤM MA)

            Thuyết-pháp gần xong, đức Như-Lai đúng dậy, tay vịn ghế thất-bửu, kêu Ngài A-Nan và đại-chúng dạy thêm rằng:

- Các ông chưa rõ trên đường tu-hành, còn gặp nhiều cảnh ma rất là nguy-hiểm. Nếu các ông không biết trước, sanh tâm tà-kiến thì đọa vào ác-đạo, cũng như người nhận lầm giặc làm con, thì bị hại chẳng ít. Vậy các ông phải chăm-chú nghe, ta sẽ chín-chắn chỉ dạy cho.

- Này A-Nan, tất cả chúng-sanh cùng với mười phương chư Phật, đồng một bản-thể chơn-tâm thanh-tịnh không hai. Bởi các ông bị vô-minh vọng-tưởng, nên sanh ra mười phương hư-không và thế-giới, nhiều như vi-trần, nhưng mười phương hư-không và hằng sa thế-giới đó đều sanh ở trong chơn-tâm của các ông, chẳng khác nào một điểm mây nhỏ sanh trong trời xanh. Nếu người ngộ được chơn-tâm rồi thì mười phương hư-không và thế-giới đều tiêu hết.

- Bởi các loài ma kia thấy người tu-hành, sanh tâm lo-sợ cho bà con quyến thuộc của chúng sẽ tiêu-diệt, nên chúng dùng đủ thần-lực đến nhiễu hại người tu. Chúng nó cũng đủ năm phép thần-thông biến-hóa, chỉ chưa được lậu-tận-thông.

- Mặc dù chúng đủ năm phép thần-thông và sức mạnh, song vẫn còn ở trong vòng trần-lao; nếu các ông trong khi tu thiền tâm được thanh-tịnh sáng-suốt, không vọng-động, thì chúng ma kia không làm sao hại được. Cũng như dao chặt xuống nước, gió thổi ánh sáng, hoàn-toàn không dính-líu gì. Chúng ma kia phải lần lần tiêu-diệt như băng bị nước nóng chế vào và tối-tăm bị ánh-sáng phá trừ; chỉ lo một điều là các ông cũng như chủ nhà; nếu chủ nhà mê-muội rồi thì các ma-chướng kia như khách dễ bề nhiễu-hại, rồi các ông trở làm con cái của ma, sau thành người ma.

- Ma-đăng-già là thứ ma yếu-hèn, nó chỉ làm cho ông phá một giới trong tám muôn giới mà thôi, nhờ tâm ông thanh-tịnh nên chẳng bị trầm-luân. Còn các chúng ma này rất là nguy-hiểm, nó phá tan giới-thân huệ-mạng làm cho ông nhiều kiếp luân-hồi. Chẳng khác nào như ông quan lớn bị cách-chức, gia-tài sự sản bị tịch-thâu, trở thành người dân trắng, không thể cầu-cứu với ai được.

X.        MƯỜI MÓN MA VỀ SẮC-ẤM:

            1.         THÂN-THỂ KHÔNG BỊ CHƯỚNG-NGẠI.

- Này A-Nan, người trong khi tu thiền, do sức dụng công, nên tâm-tánh được nhiệm-mầu sáng-suốt, tự thấy thân-thể mình trong giây phút qua lại tự-tại, không bị cái gì làm chướng ngại. Vì dụng công tu-luyện, nên tạm hiện ra các việc như vậy, không phải là chứng Thánh; nếu sanh tâm nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám-dỗ.

            2.         LƯỢM BỎ TRÙNG SÁN TRONG THÂN.

- A-Nan, hành-giả trong lúc dụng công tu thiền, thoạt thấy thân-thể mình trong suốt, các loài trùng độc, sên bò qua lại, rồi lượm bỏ ra ngoài mà thân không đau đớn. Vì dụng công tu-luyện nên tạm hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng Thánh. Nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma cám-dỗ.

            3.         NGHE TRONG HƯ-KHÔNG CÓ TIẾNG NÓI PHÁP.

- Hành-giả trong lúc tu thiền, nghe trong hư-không có tiếng thuyết-pháp, hoặc nghe Thánh, Hiền, Tiên, Phật trong mười phương thế-giới đều nói ra nghĩa-lý nhiệm-mầu. Ðây vì hành-giả dụng công tu-luyện nên tự tâm biến-hiện ra cảnh-giới như vậy, không phải chứng Thánh; nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma ám-ảnh.

            4.         THẤY PHẬT HIỆN VÀ HOA SEN NỞ.

- Người tu thiền-định, khi tâm thanh-tịnh rồi, tự phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ thấy mười phương đều hiện ra sắc vàng, tất cả các vật hóa thành Phật cả. Lại thấy đức Phật Tỳ-lô-giá-na ngồi trên đài thiên-quang, các đức Phật ngồi xung-quanh và có vô số hoa sen đồng thời xuất-hiện. Ðây do hành-giả dụng công tu thiền, nên thấy có các cảnh tạm hiện ra như vậy, không phải là chứng Thánh; nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám-dỗ.

            5.         THẤY CÁC VẬT BÁU ÐẦY CẢ HƯ-KHÔNG.

- Người trong khi tu thiền, thấy mười phương hư-không đều thành bảy báu, nào màu xanh, sắc vàng, đỏ, trắng, hiện ra vô số, mà chẳng chướng-ngại nhau. Ðây do trong lúc tu thiền, vì hành-giả dụng công đè-nén vọng-niệm thái-quá, nên nó biến-hiện ra các cảnh như vậy, không phải chứng Thánh; nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám-dỗ.

            6.         THẤY BAN ÐÊM NHƯ BAN NGÀY.

- Ngưòi tu thiền-định, do tâm yên-tịnh nên phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ, mặc dù nửa đêm, ở trong nhà tối mà vẫn thấy rõ hết cả mọi vật, không khác chi ban ngày. Vì hành-giả dụng công tu-luyện nên tạm hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị ma cám-dỗ.

            7.         THẤY THÂN-THỂ KHÔNG BIẾT ÐAU.

- Người tu thiền-định đến khi tâm-tánh được rỗng-không, thì thân-thể chẳng biết đau. Lúc bấy giờ, lửa đốt không cháy, dao chặt không đau. Ðây do sức dụng tâm tu luyện của hành-giả nên tạm được như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị ma cám-dỗ.

            8.         THẤY CẢNH-GIỚI PHẬT HIỆN KHẮP.

- Người tu thiền-định do dụng công cùng tột, nên thấy mười phương núi sông toàn cả thế-giới đều biến thành cõi Phật, đủ cả bảy món báu chiếu sáng khắp giáp. Lại thấy hằng sa chư Phật ở trong cung điện tốt-đẹp hiện đầy cả hư-không. Trong lên trên thì thấy các cung trời, xem trở xuống lại thấy hết các cõi địa-ngục đều không có chướng-ngại. Ðây do lúc tu thiền, vì hành-giả ngưng vọng-tưởng lâu ngày, nên nó hóa hiện như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị đọa vào đường ta.

            9.         BAO ÐÊM THẤY NGHE ÐƯỢC PHƯƠNG XA.

- Trong khi tu thiền, do tâm tham-cứu sâu-xa, nên trong lúc giữa đêm thấy được nào là chợ-búa, đường-sá, bà con họ-hàng ở các phương xa, hoặc nghe được tiếng nói. Ðây do hành-giả kiềm-thúc cái vọng-tâm thái quá, nên tạm hiện ra như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị đọa vào đường tà.

            10.       THÂN HÌNH BIẾN-HOÁ, NÓI PHÁP THÔNG-SUỐT.

- Trong khi tu thiền, do hành-giả dụng tâm tham-cứu cùng tột, nên thấy có các vị Thiện-tri-thúc, chỉ trong giây phút mà thân mình biến-hóa nhiều cách. Ðây do trong khi tu thiền vì hành-giả sanh tâm chấp trước, nên bị ma ám-ảnh, làm cho người này thông-suốt nghĩa mầu, nói pháp vô-ngại, không phải chứng Thánh; nếu chẳng chấp trước thì cảnh ma này lần lần tiêu; còn cho mình chứng Thánh thì bị đọa vào cảnh ma.

TÓM LẠI

- Này A-Nan! Mười cảnh ma này, đều do trong lúc tu thiền, hành-giả dụng tâm phá trừ sắc-ấm, nên nó biến-hiện ra các cảnh như vậy. Nếu khi gặp những cảnh ấy, mê-lầm không biết, cho mình đã chứng Thánh thì bị ma nó ám-ảnh, rồi sanh ra đại-vọng-ngữ, nói mình thành đạo chứng quả v.v… sau khi chết rồi đọa và địa-ngục vô-gián. Vậy khi ta nhập-diệt rồi, các ông nên y lời ta dạy, đem những việc ma này, giảng dạy cho người tu-hành đời sau, bảo-hộ người tu-hành đặng đạo-quả, chớ để cho họ bị thiên-ma nhiễu-hại.

 

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ VII)
BÀI THỨ 15: 10 MÓN MA VỀ THỌ ẤM, 10 MÓN MA VỀ TƯỞNG ẤM
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712