Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Ðạo Ðế (Ngũ Căn Ngũ Lực)

D.  Ngũ-căn - Ngũ-lực 

A.    MỞ-ÐỀ:

Trong 37 món trợ-đạo, ngũ-căn và ngũ-lực là những pháp quý báu, cũng quan-trọng như các pháp khác; có thể đua người tu-hành từ địa-vị phàm-phu đến các thánh-quả trong ba thừa.  Chúng là phục sức trang-nghiêm, là phương-tiện công hiệu giúp người thẳng tiến trên bước đường tu đạo, chứng quả.  Vậy Phật-tử chúng ta không thể không biết để hành trì. 

B.     CHÁNH-ÐỀ: 

I.                   ÐỊNH-NGHĨA NGŨ-CĂN 

Ngũ-căn là năm căn.  Căn đây tức là căn-bản, là gốc rễ, là nguồn gốc để tất cả các thiện pháp phát xuất. 

Luận Trí-Ðộ, quyển thứ mười, giải rằng: “Năm căn này là căn-bản để phát sanh tất cả thiện pháp, nên gọi là ngũ căn”.  Năm căn ấy là: Tín-căn, Tấn-căn, Niệm-căn, Ðịnh-căn và Tuệ-căn. 

II.               THÀNH PHẦN VÀ NỘI-DUNG CỦA NGŨ-CĂN 

1.      Tín-căn. 

Là lòng tin mạnh mẽ vững-chắc.  Lòng tin này không giống như lòng tin mù-quáng, vô điều-kiện, bất chấp lý-trí của phần nhiều các ngoại-đạo.  Lòng tin ở đây là con đẻ của lý-trí, là kết-quả của sự suy luận sáng suốt, của sự quan-sát kỹ càng.  Ðức Phật không bao giờ bắt buộc Phật-tử tin một điều gì mà không suy luận được, không giải-thích được.  Vì lòng tin của người Phật-tử khởi tín từ trí xét-đoán.  Bởi thế nên nó vô cùng vững chắc, mãnh-liệt.  Chính nó là căn-bản phát sinh mọi hạnh lành.  Phật dạy: “Tin là mẹ của vô-lượng công-đức”.  Nhưng Phật-tử tin cái gì?  - Phật-tử tin tam-bảo. 

Tin Phật:  Phật-tử biết rằng đức Phật là đấng hoàn-toàn giác-ngộ, giải-thoát.  Vì thế, Phật-tử suốt đời tin tưởng theo Phật, để hướng tiến đến sự giác-ngộ, giải-thoát mà Phật đã thân chứng. 

Tin Pháp:  Pháp là chân-lý, là sự thật mà đức Phật đã khám-phá ra và truyền lại cho chúng ta.  Hay nói một cách khác, pháp là giáo-lý đúng như sự thật mà đức Phật đã thuyết minh.  Chúng ta tin những giáo-lý ấy, vì người nói ra là đức Phật, đã thân chứng được và đã giác-ngộ được nhờ giáo-lý ấy. 

Tin Tăng:  Tăng là người thật-hành các giáo-lý của Phật để giác-ngộ mình và người, là kẻ thay Phật đưa cao ngọn đuốc chánh-pháp sáng-ngời, để soi đường cho chúng-sanh.  Vì thế, Phật-tử suốt đời quy hướng về Tăng. 

2.      Tấn-căn.

Tấn là tinh-tấn.  Tấn-căn là sự dũng-mãnh tinh-tấn trên bước đường tu-tập, không bao giờ thối lui.  Nếu đã có lòng tin chắc-chắn mà không tinh-tấn thực-hiện, là theo những điều mình tin, thì lòng tin suông ấy trở thành vô-dụng, không đưa chúng ta đến đâu cả. 

Vậy cho nên người Phật-tử đã tin Tam-Bảo, thì phải luôn luôn tinh-tấn thực-hành giáo-lý của Phật.  Theo Luận Nhiếp-Ðại-Thừa, tinh-tấn có ba thứ: 

- Bị-giáp tinh-tấn:  Nghĩa là mang áo giáp tinh-tấn.  Người Phật-tử trong cuộc chiến-đấu để diệt trừ đau khổ, tiến tới giải-thoát, cần phải mang áo giáp tinh-tấn, để khi xông pha vào trận địa “phiền não”, khỏi bị ma quân hảm hại.  Nhờ có áo giáp ấy, người Phật-tử tin tưởng ở năng-lực của mình, hùng-dũng tiến tới, không sợ gian-nan nguy-hiểm, không lùi bước trước một trở ngại hay một địch-thủ nào. 

- Gia-hạnh tinh-tấn:  Nghĩa là luôn luôn gắng sức không bao giờ dừng nghỉ trên bước đường đi đến giải-thoát.  Với thứ tinh-tấn này, người Phật-tử càng tiến càng hăng, càng thêm sức lực, càng phấn chí không bao giờ biết mệt mỏi. 

- Vô-hỷ-túc tinh-tấn:  Nghĩa là không vui sướng tự mãn, cho là vừa đủ khi mới thu được một ít thắng lợi trên đường tu-hành.  Người Phật-tử chưa chứng được Phật-quả, thì còn gia công gắng sức tu luyện mãi, chứ không chịu dừng nghĩ, vui thú với một quả vị thấp thỏi, tạm bợ, như người bộ hành khi chưa đến đích cuối cùng, thì còn hăng-hái bước mãi, chứ không chịu chấm dứt cuộc hành-trình của mình, bằng cách an phận ở mãi trong một quán trọ bên đường. 

3.      Niệm-căn. 

Niệm là ghi nhớ.  Ghi nhớ những gì?  

Thứ nhất niệm thí, nghĩa là nhớ tu bố-thí.  Người Phật-tử thường ngày nhớ đem tài-sản bố-thí cho người bần cùng, đem hùng lực cứu giúp người sợ hãi, đem chánh-pháp chỉ giáo người si-mê, khiến họ hết khổ được vui. 

            Thứ hai niệm giới, nghĩa là nhớ trì tịnh-giới để đoạn trừ các phiền-não nghiệp-chướng, tăng-trưởng mọi hạnh lành.  Giới có 3 thứ: 

            Nhiếp luật nghi giới:  Những giới để ngăn-cấm các hạnh nghiệp thô xấu, đoạn diệt các nghiệp-chướng nơi thân tâm.         

            Nhiếp thiện pháp giới:  Những quy-điều đúng pháp và lợi-ích, người thực-hành theo nó, có thể thành-tựu tất cả pháp lành.     

            Nhiêu ích hữu-tình giới:  Những điều lật làm lợi-ích an-lạc cho tất cả chúng-sanh. 

            Thứ ba niệm thiên: Luận Nhiếp Ðại-th ừa có nói: “Thiên niệm trụ là an-trụ bốn món thiền-định”.  Vậy Niệm thiên là nhớ tu các niệm thiền-định, để gạn sạch tất cả phiền-não, thể chứng chân-như. 

4.      Ðịnh-căn. 

Ðịnh hay tịnh-lự do dịch nghĩa chữ Phạn là Dhyana (Thiền-na).  Ðịnh là lắng tâm yên-tịnh, chuyên chú vào chánh-pháp, để suy-đạt thật nghĩa của nó.  Theo luận Nhiếp Ðại-thừa, định có thể chia làm ba bậc. 

An-trụ định:  Ðể tâm an-trụ vào định-cảnh, không cho tán động, do đó phiền-não được tiêu trừ. 

Dẫn-phát định:  Do đoạn sạch phiền-não, nên được phát-sanh sáu món thần-thông là các công-đức thù-thắng. 

Thành-sở-tác-sự định:  Do đã phát khởi được các công-đức, thần-thông, nên thường làm lợi-ích cho tất cả chúng-sanh; cứu độ chúng-sanh giải-thoát sanh-tử, chứng được Niết-bàn. 

5.      Tuệ-căn 

Tuệ là trí-tuệ sáng-suốt, thâm nhập được chân-tướng của vạn pháp.  Trí-tuệ ấy không có sự phân-biệt, vì phân-biệt là tác-dụng của vọng-thức, là mê-lầm.  Cũng theo Luận Nhiếp Ðại-thừa, trí-tuệ có ba thứ: 

            Vô phân-biệt gia-hạnh tuệ:  Quán trí này không còn thấy có phân-biệt, nhưng còn có gia-hạnh, nghĩa là còn phải dụng công tu-hành, để thành-tựu hoàn-toàn vô phân-biệt trí.  Vì thế, nên gọi là “vô phân-biệt gia-hạnh tuệ”. 

            Vô phân-biệt tuệ:  Trí-tuệ này không có sự phân-biệt, mà không cần phải gia-hạnh, vì đã thuần-thục.  Do không phân-biệt nên không có mê-vọng.  Nhờ trí-tuệ này, người tu-hành được tự-tại thể chứng chân như. 

            Vô phân-biệt hậu đắc tuệ:  Hay hậu-đắc-trí, nghĩa là trí-tuệ có được sau khi đã chứng được chân-như.  Trí-tuệ này hoàn-toàn sáng-suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa của các pháp.  Chư Phật nhờ hậu-đắc-trí này mà thi-tác vô-lượng công-đức, để cứu độ chúng-sanh. 

            Nói một cách tổng-quát, giản-dị, tuệ-căn là trí-tuệ do thiền-định đã làm lặng sạch các vọng-tưởng, phân-biệt mà phát sanh.  Nó thông đạt được sự thật của các pháp; nó là căn-nguyên phát sanh mọi việc vĩ-đại để giải-thoát chúng-sanh. 

III.            ÐỊNH-NGHĨA NGŨ-LỰC 

Ngũ-lực tức là năm năng-lực vĩ-đại, năm thần-lực của ngũ-căn.  Nói một cách dễ hiểu: ngũ-căn như năm cánh tay, còn ngũ-lực như là sức mạnh của năm cánh tay ấy. 

IV.             THÀNH PHẦN VÀ NỘI-DUNG CỦA NGŨ-LỰC 

1.  Tín lực: tức thần-lực của đức tin, hay sức mạnh lớn-lao, vi-diệu do tín-căn phát sinh. 

2.  Tấn lực: tức thần-lực của đức tinh-tấn, hay sức mạnh bất thối chuyển, kiên-cố, có thể san bằng mọi trở lực, sức mạnh này do tấn-căn phát sinh. 

3.  Niệm lực: tức thần-lực của sự ghi nhớ, hay sức mạnh lớn-lao bền chắc của niệm-căn. 

4.  Ðịnh lực: tức thần-lực của sự tập trung tư-tưởng hay sức mạnh vĩ-đại của định-căn. 

5.  Tuệ lực: tức thần lực của trí-tuệ hay sức mạnh vô-biên của tuệ-căn.  

            Nói một cách tổng-quát, những sức mạnh này là kết-quả thâu đạt được do sự kiên-cố tu luyện ngũ-căn.  Nó như là một ngọn lửa bật lên sau khi người ta đã nổ-lực cọ xác hai cây củi vào nhau để lấy lửa. 

C.    KẾT-LUẬN: 

DIỆU-DỤNG CỦA NGŨ-CĂN VÀ NGŨ-LỰC 

            Như chúng ta đã thấy ở trên, ngũ-căn ngũ-lực vừa làm căn-bản, vừa là nghị-lực để phát sinh, tăng-trưởng vô-lượng công-đức thù-thắng. 

            Bất luận người nào, hễ đã lấy trí làm nền-tảng, tinh-tấn thật hành chánh-pháp (tấn) hằng ghi nhớ chánh-pháp để tiến tu (niệm), tập trung tư-tưởng để trừ sạch vô-minh phiền-não (định), đem diệu tuệ vô phân-biệt (tuệ) để chứng chân-như, thì người ấy thế nào cũng nắm chắc trong tay quả vị vô-thượng Bồ-đề.  Vì sao?  - Vì ngưòi ấy đã có những thần lực vĩ-đại (ngũ-lực) do ngũ-căn gây tạo.  Với ngũ-lực này, hành-giả như người bộ-hành có đủ phương-tiện linh lợi, diệu-dụng để băng rừng, vượt biển và đi đến đích cuối cùng.  Ðích cuối cùng của người tu-hành theo chánh-pháp tức là thành Phật.  Ðến đích nầy, người ấy là ánh-sáng của chúng-sanh, là ruộng phước tối thắng để chúng-sinh gieo mầm an-lạc.  Chính người này mới có thần lực, diệu-dụng làm cho chúng-sanh trở thành những kẻ hoàn-toàn giải-thoát, hoàn-toàn giác-ngộ. 

            Kết-quả của ngũ-căn và ngũ-lực lớn lao, quý báu như thế đó, chúng ta không thể không tu theo hai pháp-môn ấy.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ III )
ÐẠO ÐẾ (THẤT BỒ ÐỀ PHẦN)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712