Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Ðạo Ðế (Tứ Như ý Túc)

C.  Tứ Như-ý-túc 

A.      MỞ-ÐỀ: 

Sau khi đã nhận rõ được chân-tướng của cõi đời (tứ-niệm-xứ), đã quyết tâm bỏ ác theo thiện (tứ-chánh-cần), hành-giả muốn đi xa trên đường đạo, cần phải vạch cho mình một hướng tiến nhất-định và phải có một thái-độ quyết tâm nhắm theo đúng hướng đã vạch mà đi, không nhìn ngang nhìn ngửa, không mong ước cái này cái khác.  Hành-giả chỉ quyết đi một đường, tập trung tất cả mong ước, chú nguyện, ý chí, năng-lực tinh-thần của mình vào đó cho đến khi được toại nguyện như ý mới thôi. 

Muốn được như thế, hành-giả phải tu theo pháp môn “Tứ như-ý-túc”, một trong những pháp môn của Ðạo-đế dưới đây. 

B.       CHÁNH-ÐỀ: 

I.                   ÐỊNH-NGHĨA TỨ NHƯ-Ý-TÚC 

Tứ như-ý-túc là bốn phép thiền-định.  Nói cho rõ đó là bốn phương-tiện giúp chúng ta thành-tựu các tam-ma-địa (Samadhi: chánh-định), vì thế nên cũng gọi là định-pháp.  “Như-ý” là được như ý mình muốn.  “Túc” là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy đủ.  Tứ như-ý-túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công-đức thiền-định, thần-thông được thành-tựu mỹ-mãn như ý muốn của mình.  Bởi lý do ấy, nên cũng gọi nó bằng bên Tứ-thần-túc.  Luận Câu-xá quyển 25 có nói: “Vì sao định mà gọi là thần-túc?  - Vì các công-đức linh-diệu thù-thắng đều nương nơi bốn định này mà được thành-tựu”. 

Bốn định ấy là: 

-         Dục như-ý-túc.

-         Tịnh-tấn như-ý-túc.

-         Nhất tâm như-ý-túc.

-         Quán như-ý-túc. 

II.               NỘI-DUNG CỦA TỨ NHƯ-Ý-TÚC 

1.      Dục Như-ý-túc. 

Dục là mong muốn.  Mong muốn một cách thiết-tha, mong muốn cho kỳ được, mong muốn cho đến khi mãn nguyện mới thôi.  Ðó gọi là dục như-ý-túc.  Nhưng mong muốn cái gì?  Tại sao đã là Phật-tử mà còn “dục”, còn mong muốn? 

Trước tiên, chúng ta nên nhận-định rõ ràng tánh chất của sự mong muốn ở đây.  Có thứ mong muốn thỏa mãn những thú tánh, những tham-vọng: đó là mong muốn tội lỗi, nên diệt trừ.  Có thư mong muốn hướng thượng, trong lành, như mong muốn sống một cuộc đời đẹp-đẽ, thanh-cao, mong muốn được giải-thoát ra ngoài biển khổ sanh-tử: đó là thứ mong muốn hợp lý, đáng khuyến-khích.  Người Phật-tử mong muốn được thành đạt pháp thiền-định mình đang tu, để tiến lên chứng các thánh quả.  Thứ mong muốn này rất cần cho người tu-hành; nếu không mong muốn thiết-tha, mãnh liệt thì khó mà đi đến đích giải-thoát được.  Ðây cũng là một sự cải chính rất hùng-hồn để đánh tan quan-niệm sai lầm cho rằng: người Phật-tử phải diệt-dục, mà diệt-dục nghĩa là diệt tất cả, diệt luôn cả sự sống.  Thậ ra diệt-dục ở đây tức là dục-vọng, diệt những phần ham muốn xấu-xa đê-hèn, làm cho con người bị đọa xuống hàng thấp-thỏi như loài súc-sanh, địa-ngục, chứ có đâu diệt luôn cả những chí-nguyện, những mong ước, những đức tánh tốt đệp của con người?  Sự mong muốn sau này, người Phật-tử không bao giờ lãng quên, trái lại họ trút cả tâm-tư hướng về cái đích mình đang nhắm, những pháp mình đang tu. Người thế-gian ưa thích vật dục mạnh mẽ như thế nào, thì người tu-hành mong muốn thành-tựu những pháp thiền-định của mình cũng mạnh-mẽ như thế ấy.  Có như thế, hành-giả mới tăng tiến mãi trên bước đường tu-hành của mình. 

2.      Tinh-tấn Như-ý-túc. 

Tinh-tấn là dũng-mãnh, chuyên nhất vào pháp thiền-định mình đang tu.  Phần trên chỉ mới là sự ước muốn.  Sự ước muốn dù đẹp đẽ bao-nhiêu mà không ra công, gắng sức, luôn luôn bền tâm vững chí, nghĩa là thiếu sự tinh-tấn dõng mãnh, thì ước muốn, muôn đời cũng chỉ là ước muốn suông thôi. 

Chúng ta nên nhớ rằng tinh-tấn không phải chỉ là sự hăng-hái, bồng-bột trong chốc-lát, như sự ồ-ạt, bốc cháy của ngọn lửa rơm.  Tinh-tấn là nghị-lực tu tập mạnh-mẽ, thường hằng, không bao giờ gián-đoạn.  Trong kinh Di-Giáo, đức Thế-Tôn có dạy: “…Như người kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng đã thôi, tuy muốn được lửa, nhưng khó thể được”. 

Vậy người muốn chứng đạo-quả, phải thường tinh-tấn đầy đủ như ý mình ước nguyện. 

3.      Nhất tâm Như-ý-túc. 

Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh, không bao giờ tán-loạn.  Một con sông lớn, nếu bị chia nhiều nghành tất nhiên sức chảy của nó bị yếu.  Trái lại, một giòng suối nhỏ, nếu chỉ chảy một đường, cũng đủ sức xoi thủng đá.  Người tu-hành, tâm được chuyên nhất, không bị tán loạn, thì muôn sự đều thành.  Phật có dạy: “Như người chứa nước, khéo giữ bờ đê, người tu-hành giữ nước trí-tuệ cũng vậy, phải khéo tu thiền-định, chớ cho tán động”. 

4.      Quán Như-ý-túc. 

Quán nghĩa là dùng trí-tuệ sáng-suốt, quán sát pháp mình đang tu.  Quán trí ấy do định mà phát sanh, trí ấy là tịnh-trí.  Vì tịnh cho nên nó có thể như thật thông đạt thật nghĩa (chân-lý) của các pháp (vũ-trụ). 

C.      KẾT-LUẬN: 

TÓM TẮT Ý-NGHĨA VÀ DIỆU-DỤNG CỦA TỨ NHƯ-Ý-TÚC 

            Sở-dĩ Dục, Tinh-tấn, Nhất-tâm Quán đều được gọi là Như-ý-túc; vì chúng là những thứ để cho tất cả công-đức tu-hành, thần-lực nương vào đó mà phát sanh, hợp như ý muốn của hành-giả. 

            Bốn phép này như bốn nấc thang kế-tiếp theo nhau, để đưa hành-giả từ cái nhân hữu-lậu mê-mờ, đến cái nhân vô-lậu giải-thoát:  Trước hết, do tâm hằng mong muốn (Dục), cho nên sự tu-tập càng dũng-mãnh (tinh-tấn); nhờ sự tu-tập dũng-mãnh, nên phiền-não tiêu, tán-động hết, do đó tâm được chuyên nhất (nhất tâm), nhờ tâm chuyên nhất nên quán trí được thanh-tịnh mãnh lợi (quán), và có năng-lực phá tan cội gốc vô-minh. 

            Khi vô-minh hết, thì vô số nghiệp chướng phải tiêu, hằng sa trí, đức phát hiện.  Người tu-hành, khi trí-tuệ và công-đức viên-mãn, tức khắc đầy đủ vô-biên thần-dụng trong sự hiện thân, hiện độ, để cứu khổ chúng-sanh, chứ có phải đâu chỉ khi chứng được lục-thông mới được tự-tại ?

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ III )
ÐẠO ÐẾ (NGŨ CĂN NGŨ LỰC)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712