Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Quy Y Tam Bảo

QUY-Y TAM-BẢO

A.  Mở Ðề: 

      Cảnh-giới Ta-bà của chúng ta là một cảnh-giới đầy mê-mờ và dục-vọng.  Chúng ta đang lặn hụp trong bể nước mắt của đau khổ và bùn nhơ của dục-vọng.  Sống trôi lăn trong cảnh ấy, chúng ta khó thấy được bến bờ sáng-sủa, yên-ổn để lội vào.  Thật là đáng thương cho thân phận con người chúng ta. 

      Nhưng bản-nguyện chúng ta đâu có thế !  Chúng ta, từ vô-thỉ, ở nơi nguồn chơn vắng-lặng, sáng-suốt vô cùng.  Vì một niệm bất-giác, khởi vô-minh vọng-tưởng, nên chúng ta bị quay-cuồn trong sanh-tử, trôi nổi trong ba cõi sáu đường. 

      Vậy thì trong chúng ta, ai là người không muốn thoát ra khỏi cõi đen tối, sầu đau này, để được trở về nguồn sáng, an vui ? 

      Nhưng làm sao để thoát ra được ?  Ai sẽ là kẻ rủ lòng thương để đưa đường chỉ lối cho chúng ta ?  Ai là người có đủ phương pháp thần-diệu để giúp chúng ta ra khỏi sanh-tử luân-hồi ? 

      Ðấng cao-cả sáng-suốt và đầy đủ năng-lực ấy không ai khác hơn là Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.  Ngài đã chứng quả bất-sanh bất-diệt và chỉ có giáo-pháp của Ngài mới cứu được chúng-sanh ra khỏi vô-thường đau khổ. 

      Vậy thì chúng ta còn ngần ngại gì nữa mà chẳng chịu quy-y Tam-bảo.

B.  Chánh Ðề:

I.                   ÐỊNH DANH VÀ GIẢI NGHĨA 

1)      Quy-y nghĩa là gì ?  Quy là trở về; Y là nương tựa.  Quy-y là trở về nương tựa nơi mà mình đã vì si-mê, phóng-lãng lìa bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đã rời bỏ cha mẹ để ra đi hoang-phá, bây giời biết sự dại khờ do kinh-nghiệm khổ-đau, quay trở về nương-tựa lại dưới bóng hạnh-phúc và yêu-thương của cha mẹ.  Chữ quy-y nguyên dịch nghĩa chữ Nam-mô của Phạn ngữ.  Quy-y cũng có nghĩa là kính vâng hay phục-tòng. 

2)      Tam-bảo nghĩa là gì ? Tam-bảo là ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng. 

Ở thế-gian, vàng bạc, ngọc ngà và danh vọng là quí-báu.  Nhưng sự thật, vàng-bạc và danh-vọng đâu có cứu được con người khỏi khổ đau: sống, già, bịnh, chết, mà lắm khi lại còn làm cho người thêm khổ nữa!  Còn Phật, Pháp, Tăng thì có đủ năng-lực dắt-dẫn con người ra khỏi những cái khổ nói trên.  Bởi thế, người đời mới tôn sùng Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi quý-báu, (Tam-bảo). 

a)      Phật:  Chữ Phật do chữ Phạn Bouddha phiên-âm ra.  Người Tàu dịch là Giác-giả; người Pháp dịch là L’Illuminé.  Ba chữ ấy đều cùng một nghĩa là: bực đã giác-ngộ sáng-suốt hoàn-toàn về ba phương-diện : tự-giác, giác-tha, giác-hạnh viên-mãn. 

b)      Pháp:  Pháp là do chữ Phạn Darma mà dịch nghĩa ra.  Pháp là phương-pháp tu-hành mà Phật đã phát-huy ra để diệt-trừ mọi mê-muội, khổ đau và chứng được quả Phật.  Ba tạng kinh-điển gọi chung là Pháp. 

c)      Tăng:  Tăng hay Tăng-già là do chữ Phạn Sangha mà phiên-âm ra.  Tàu dịch là hòa-hợp chúng, nghĩa một đoàn-thể tu-hành từ 4 người sắp lên, cùng nhau sống chung một chỗ, đồng giữ giới-luật của Phật, đồng chia sớt cho nhau một cách hòa-thuận những gì đã thâu nhận được, từ vật-chất cho đến tinh-thần. 

3)      Quy-y Tam-bảo là thế nào ?  Quy-y Tam-bảo là trở về nương-tựa ba ngôi quý báu : Phật, Pháp, Tăng. 

Tại sao lại quy-y Phật ?  Vì Phật là đấng hoàn-toàn sáng-suốt, từ-bi, vô-lượng, phước huệ vô-biên, đức hạnh viên-mãn; vì Phật là kẻ dẫn đường vĩ-đại nhất, đã có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài vòng sanh-tử để chứng Ðạo.

Tại sao lại quy-y Pháp ?  Vì chỉ có phương pháp của Phật là đầy-đủ công-năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải-thoát. 

Tại sao lại quy-y Tăng ?  Vì Tăng là người đã hy-sinh gia-đình, tiền của danh vọng để tình nguyện thay Phật dắt-dẫn chúng-sanh trên đường đạo.

II.                BA BỰC TAM-BẢO 

Tam-bảo có ba bực:

-          Ðồng thể Tam-bảo.

-          Xuất-thế-gian Tam-bảo.

-          Thế-gian trụ-trì Tam-bảo. 

1.                  Ðồng-thể Tam-bảo 

a)      Ðồng-thể Phật bảo, tức là nói tất cả chúng-sanh cùng chư Phật đồng một thể tánh sáng-suốt. 

b)      Ðồng thể Pháp bảo, tức là nói tất cả chúng-sanh cùng chư Phật đồng một pháp tánh từ-bi, bình-đẳng. 

c)      Ðồng-thể Tăng bảo, tức là nói tất cả chúng-sanh cùng chư Phật đồng một thể tánh thanh-tịnh, sự, lý; hoà-hợp. 

2.                  Xuất-thế-gian Tam-bảo 

Xuất-thế-gian Tam-bảo: 

a)      Xuất-thế-gian Phật bảo, là chỉ cho đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, đức A-di-đà chư Phật trong mười phương ba đời, đã tự-tại giải-thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế-gian. 

b)      Xuất-thế-gian Pháp bảo, là chỉ cho chánh-pháp của Phật, có công-năng làm cho chúng-sanh thoát khỏi sự ràng-buộc của thế gian, như Tứ-đế, Thập-nhị nhân-duyên, Lục độ v.v… 

c)      Xuất-thế-gian Tăng bảo, là chỉ cho các vị Thánh-tăng đã thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế-gian như Quan-Thế-Âm, Ðại-Thế-Chí, Văn-Thù, Ca-Diếp, A-Nan v.v… 

3.                  Thế-gian trụ-trì Tam-bảo

Thế-gian trụ-trì Tam-bảo: 

a)      Thế-gian trụ-trì Phật-bảo, là chỉ cho xá-lợi của Phật, tượng Phật đúc bằng kim khí, chạm trổ bằng danh mộc, tô bằng đất, thêu bằng vải, hay vẽ trên giấy. 

b)      Thế-gian trụ-trì Pháp-bảo, là chỉ cho ba tạng giáo-điển: Kinh, Luật, Luận, viết hay in trên giấy, trên vải, trên lá bối v.v… 

c)      Thế-gian trụ-trì Tăng-bảo, là chỉ các vị Tỳ-kheo tu-hành chơn-chánh, đạo-đức trong sạch, giới-luật trang-nghiêm trong hiện tại.

III.             SỰ QUY-Y TAM-BẢO 

Sau khi đã hiểu rõ thế nào là quy-y Tam-bảo, tất nhiên phải thực-hành sự hiểu biết ấy.  Thực-hành Tam quy bằng sự-tướng cúng kính, vâng theo Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y Tam-bảo. 

1.      Sự quy-y Phật:  Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn đến Phật, niệm danh hiệu Ngài, chiêm-ngưỡng tượng Ngài, chí tâm thật ý lễ bái để tỏ lòng sùng kính Ngài và nguyện suốt đời theo bước chân Ngài ấy là sự quy-y Phật. 

2.      Sự quy-y Pháp:  Hằng ngày tụng đọc kinh, luật, luận trên giấy trắng mực đen; sớm hôm hai thời công-phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm-huyền của Pháp-bảo càng tốt, không biết nghĩa tụng suông, cũng không phải là vô ích.  Khi tụng đọc Kinh-điển, tâm trí chúng ta không nghĩ đến những ý nghĩ xằng-bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn.  Chúng ta trừ bỏ được dục-vọng, tâm trí được sáng-suốt, an lành, thanh-tịnh. 

3.      Sự quy-y Tăng:  Thế-gian thường nói: “Trọng Phật phải kỉnh Tăng”.  Cho nên nếu chúng ta thành tâm thờ Phật, bao nhiêu thì chúng ta lại phải thật dạ kỉnh Tăng bấy nhiêu.  Người thực-hành sự quy-y Tăng, hễ thày người đầu tròn áo vuông, có chân-chính tu-hành, giữ-gìn giới-luật, thì liền kính nể quý trọng xem như đó là vị đại-diện của Ðức Phật.  Làm như thế là sự quy-y Tăng. 

Tóm lại, thờ Phật cốt, Phật tượng, tụng kinh, giữ giới, nghiên-cứu Phật-pháp, kính trọng Tăng-già chân-chính, đó chính là sự quy-y Tam-bảo, hay nói nôm-na là theo đạo Phật.

IV.             LÝ QUY-Y TAM-BẢO

Lý là bên trong.  Lý quy-y tam-bảo nghĩa là quy-y tam-bảo bên trong chúng ta.  Nếu chúng ta chỉ thực-hành sự quy-y, chỉ giong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y, nghĩa là quên Tam-bảo bên trong chúng ta, thì chúng ta chưa thực-hành đúng nghĩa Tam-quy.  Thật thế, bên trong chúng ta cũng có đủ Tam-bảo.  Chúng ta cần thực hành lý quy-y, hay tam tự quy: tự quy-y Phật, tự quy-y Pháp, tự quy-y Tăng. 

1.  Tự quy-y Phật:  Tự nghĩa là mình đối với mình.  Tự quy-y Phật là mình tự trở về với Phật-tánh sáng-suốt của mình.  Vâng, mỗi người đều có Phật-tánh, và đều có thể thành Phật.  Ðó là lời Phật Thích-Ca đã dạy.  Nhưng Phật-tánh ấy bị mê lầm, vọng-tưởng che lấp.  Vọng-tưởng như mây mờ, vọng-tưởng như trăng sáng.  Mây mời có thể che khuất chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng. 

Phật-tánh của chúng ta dù bị vọng-tưởng vô-minh che lấp sâu kín đến đâu cũng vẫn thường còn.  Vậy thì sao chúng ta lại bỏ quên Phật-tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn Phật bên ngoài như đứa “cùng tử” có viên ngọc quý, cha mẹ đã giấu sẵn trong chéo áo mà không biết, lại đi ăn xin cùng khắp mọi nơi? 

2.  Tự quy-y Pháp:  Tự quy-y Pháp là vâng theo Pháp-tánh của mình.  Trong tâm ta có đủ các pháp Từ-bi, Trí-tuệ, Bình-đẳng, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn… Chúng ta cần phát-huy những tánh ấy và hành động theo chúng, tuân theo chúng; như thế là tự quy-y Pháp. 

3.  Tự quy-y Tăng:  Tự quy-y Tăng là vâng theo thầy trong tâm mình.  Thầy trong tâm mình là đức tánh thanh-tịnh hòa-hợp của mình, như Tăng-già là hiện thân của sự hòa-hợp thanh-tịnh bên ngoài.  Bấy lâu vì mê-muội, không nhận thấy được ông thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận thấy được ông thầy thanh-tịnh ấy, thì mình phải quy-y thầy của mình trước đã chứ! 

Nói tóm lại, mình phải nương-tựa, quay về với Phật trong tâm mình là tánh sáng suốt; với Pháp của mình là các đức tánh Từ-bi, Hỷ-xả v.v…; với Tăng của mình là sự hòa-hợp, thanh-tịnh của bản tâm.  Như thế là Lý quy-y Tam-bảo.

V.                NGHI-THỨC QUY-Y 

Sau khi chúng ta đã hiểu rõ Sự và Lý quy-y rồi, chúng ta cũng cần biết qua nghi thức của lễ quy-y. 

1.  Trước tiên phải gội rửa thân tâm cho trong sạch.

Quy-y là buổi lễ quan-trọng nhất trên đường tu-tập của chúng ta.  Nó là cuộc khỏi hành để đi đến mục-đích giải-thoát, vì thế chúng ta không thể xem thường, cử hành một cách bừa-bãi được. 

Khi muốn quy-y, chúng phải y-phục chỉnh tề, sắm khay lễ thỉnh chư Tăng đến trai đường đãnh lễ và cầu xin chư Tăng rủ lòng từ-bi truyền trao quy-giới cho mình. 

Trước ngày hành lễ, thân tâm chúng ta phải được gội rữa trong sạch.  Ta tắm rửa sạch-sẽ, ăn mặc chỉnh-tề.  Ðó là về Thân; còn về Tâm thì ta phải ba phen sám-hối, cho ba nghiệp được thanh-tịnh.  Nhờ sự tẩy gội cả trong lẫn ngoài ấy, ta mới xứng đáng đón nhận pháp thanh-tịnh cao quý của Tam-bảo. 

2.      Phát-nguyện. 

Ðến giờ quy-y, chúng ta phải quỳ xuống theo lời hướng-dẫn của chư Tăng, chí-thành phát-nguyện: 

-          Ðệ-tử xin suốt đời quy-y Phật.

-          Ðệ-tử xin suốt đời quy-y Pháp.

-          Ðệ-tử xin suốt đời quy-y Tăng. 

Sau khi phát nguyện Tam-quy rồi, người phát-nguyện tin chắc rằng mình đã gieo hạt giống giải-thoát, thế nào cũng sẽ gặt được kết-quả tốt là thoát ly ba đường ác: địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh.  Vì thế, người quy-y liền nói tiếp ba lần. 

-          Ðệ-tử quy-y Phật rồi, khỏi đọa địa-ngục.

-          Ðệ-tử quy-y Pháp rồi, khỏi đọa ngạ-quỷ.

-          Ðệ-tử quy-y Tăng rồi, khỏi đọa súc-sanh. 

Thế là trọn vẹn Tam-quy và Tam-bảo. 

Ðể bảo tồn lý-tưởng cao-cả của mình và giữ vững đức tin trên đường Ðạo, người quy-y tự nguyện một cách mạnh-mẽ và thành khẩn: 

-          Ðệ-tử quy-y Phật, nguyện trọn đời không quy-y thiên, thần, quỷ, vật.

-          Ðệ-tử quy-y Pháp, nguyện trọn đời không quy-y ngoại-đạo, tà-giáo.

-          Ðệ-tử quy-y Tăng, nguyện trọn đời không quy-y tổn hữu, ác đảng. 

Như thế là lễ quy-y đã hoàn-tất.  Người tín-đồ chỉ còn việc làm theo đúng những lời mình đã phát-nguyện đã tuyên-thệ trước Tam-bảo.

VI.             LỢI-ÍCH CỦA QUY-Y TAM-BẢO 

1. Khỏi đi lạc đườngđời vào nơi tăm tối. 

Như chúng ta đã thấy ở đoạn mở đầu bài này, chúng sanh đang lặn hụp trong biển khổ, đang bơ-vơ lạc-lõng giữa đêm tối mênh mông.  Trong hoàn cảnh bi thảm như thế, nếu không thấy được một đích sáng để hướng đến, không có những phương tiện để đi đến, không có những bậc thầy để dìu-dắt đến, thì chúng ta sẽ quay cuồn mãi mãi trong biển sanh-tử luân hồi.  Cái đích sáng ấy là đức Phật, những phương tiện ấy là Pháp, và những bậc thầy dìu-dắt ấy là Tăng.  Khi chúng ta đã biết có những sự quý báu như thế mà lại không nắm bắt lấy, thì chẳng khác gì người sắp chết đuối thấy cái bè gỗ trôi qua mà lại dại khờ xua đẩy nó ra. 

Sự quy-y chính là một cách bám víu cái bè Tam-bảo mà Phật đã chế ra để cứu vớt những kẻ sắp chết đuối trong biển đời là toàn thể chúng ta. 

2. Khi đã phát-nguyện quy-y, mình đễ giữ đúng lời đã hứa, vì có sự chứng tri của chư Phật và chúng Tăng. 

Có người sẽ nói: “Tôi tôn sùng đức Phật vì biết Ngài là một đấng sáng-suốt hoàn-toàn; tôi trọng Pháp vì biết Pháp Phật có đủ năng lực đưa người đến giải-thoát; tôi kỉnh Tăng vì biết đấy là những vị đại diện của Phật.  Biết như thế cũng đủ, cần gì phải làm lễ phát-nguyện quy-y ?” 

Nói như thế là chưa hiểu giá trị về phương diện tâm lý của lời hứa, lời thề trước mắt người khác.  Khi chúng ta đã hứa với ai một điều gì mà nuốt lời hứa, thì tâm-hồn chúng ta bức rức, hối-hận không an.  Ðã hứa tất có bổn phận làm tròn lời hứa, nếu thất lời hứa, tất ta sẽ tự khinh ta, nhất là khi lời hứa, lời nguyện ấy lại cử hành trong một khung cảnh trang nghiệm trước điện Phật, trên có sự chứng tri của chư Phật, dưới có sự chứng tri của chư Tăng, chung quanh có sự hộ niệm của những thân bằng quyến thuộc; phát-nguyện trong khung-cảnh ấy, tất-nhiên chúng ta khó lòng mà làm trái lời nguyện, hay xao lãng nó được.

Vậy, đã biết Tam-bảo là quý, tất-nhiên ta phải quy-y Tam-bảo và cử hành lễ quy-y một cách trang-nghiêm mới được.

C.  Kết luận: 

KHUYÊN TÍN-ÐỒ NÊN QUY-Y CẢ SỰ LẪN LÝ VÀ TINH TIẾN TRONG SỰ QUY-Y 

Chúng ta đã thấy, là Phật-tử thì phải quy-y.  Quy-y phải đủ Sự và Lý.  Không nên hoàn toàn ỷ-lại bên ngoài mà xao-lãng bên trong.  Cũng không nên hoàn-toàn tự tôn tự trọng riêng mình mà khinh thị bên ngoài.  Muốn quy-y thì trước tiên phải long-trọng làm lễ quy-y để đánh dấu bước đi đầu tiên của mình trên đường giải-thoát.  Lễ ấy như là lễ tiển đưa một người ra đi nhận một nhiệm vụ mới.  Nhưng một khi đã đặt chân lên đường, thì người ấy phải giong ruổi, quyết tiến mau cho đến đích chứ không phải chần-chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác.  Ðã phát-nguyện quy-y mà không theo dấu chân của đức Phật để lại, không soi vào gương sáng của đức Phật đã nêu cao, không theo giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh, không giữ giới luật, không vâng lời nhắc-nhở của chư Tăng, như thế là tự lừa dối mình và lừa dối người khác, và cái tai hại lại càng lớn lao hơn cả không quy-y. 

Trái lại, nếu chúng ta quy-y và thực hành đúng như lời đã phát-nguyện thì con đường giải-thoát dù xa, cũng sẽ có ngày thấy đích. 

Xin hãy nhớ luôn lời nói cuối cùng của Phật : 

“Hãy tinh-tấn lên để giải-thoát !”

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ I )
NGỦ GIỚI
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712