Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Ngủ Giới

NGŨ - GIỚI 

A.  Mở Ðề: 

Sau khi quy-y Tam-bảo rồi, người Phật-tử tại-gia phải sống theo quy-luật mà đức Phật đã chế ra, để tiến bước trên đường Ðạo.  Quy-luật ấy là Ngũ-giới.  Người theo đạo Nho phải sống đúng theo Tam-cương, Ngũ-thường thì người theo đạo Phật cũng phải sống Tam-quy, Ngũ-giới.  Người theo đạo Nho không thể theo Tam-cương mà bỏ Ngũ-thường thì người theo đạo Phật cũng không thể chỉ thọ Tam-quy mà không trì Ngũ-giới. 

Người đã phát tâm quy-y Tam-bảo là đã bước chân lên nấc thang giải-thoát, nhưng nếu không giữ năm giới là chỉ mới bước một nấc đầu rồi dừng lại, không thể tiến đến giải-thoát thật sự được.

Năm giới này không những đưa người mạnh tiến trên đường giải-thoát, mà còn đem lại trật tự, an-vui, hòa-bình cho gia đình, quốc-gia, xã-hội nữa.  Năm giới chính là giềng mối chắc thật tạo hạnh phúc cho cá nhân và đoàn thể, chính là ông thầy ngăn ngừa chúng ta làm điều xằng bậy trong thời mạt pháp.  Vì thế, đức Phật Thích-Ca đã có lời di-chúc khẩn-thiết sau đây trước khi Ngài nhập Niết-bàn: 

-          “Sau khi ta diệt-độ, các người tu-hành phải tôn-kính giới-luật làm thầy; dầu cho ta còn tại-thế đễ dạy dỗ các người mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng không thêm điều nào ngoài giới-luật”. 

Giới-luật Phật chế ra thì rất nhiều, vì cần phải áp-dụng cho nhiều hạng người tu-hành: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni. Riêng đối với hàng Phật-tử tại-gia, thì chỉ có năm giới mà thôi.  Nhưng nếu giữ được năm giới ấy thì lợi-ích cho mình, cho người không xiết kể. 

B.  Chánh Ðề: 

I.       ÐỊNH NGHĨA 

Ngũ-giới là năm điều răn cấm mà Phật đã chế ra, để ngăn những tưởng niệm ác, nói-năng chẳng lành, hành-động bất chính.  Năm điều răn ấy là : Không được giết hại, không được trộm cướp, không được tà dâm, không được nói dối, không được uống rượu.  Năm điều này y cứ nơi tâm từ-bi, bình-đẳng, trên phương-diện dứt-trừ tội-lỗi cá-nhân và đem lại trật-tự, an-vui cho xã-hội mà thành lập.  Ðức Phật không bắt-buộc chúng ta phải triệt để tuân theo và cũng không hăm dọa nếu chúng ta không tuân theo thì phải bị Ngài trừng phạt.  Sự giữ hay không giữ giới là hoàn toàn do chúng ta tự liệu lấy.  Ðạo Phật khác với các tôn-giáo khác chính là ở điểm đức Phật không phải là một quan Tòa tối cao giữ quyền thưởng phạt.  Một ý-nghĩ, một lời nói, một hành-động tốt hay xấu chính đã mang theo nó một cái mầm thưởng phạt rồi.  Ðức Phật chỉ là một vị dẫn đường rất từ-bi và rất sáng suốt; Ngài chỉ cho chúng ta con đường nào là con đường sáng và con đường nào là con đường nguy-hiểm không nên đi. 

Nhưng nếu chúng ta không theo con đường sáng mà lại muốn đi vào con đường nguy-hiểm, thì tất nhiên chúng ta sẽ gặp tai họa tự-nhiên, chứ Phật không tạo ra tai họa để trừng phạt chúng ta.  Tòa-án chính là luật nhân-quả.  Ta làm ác thì ta bị quả xấu; ta làm thiện thì ta được quả tốt.  Năm giới chính là năm thành-trì ngăn chận cho ta đừng đi lạc vào đường ác, là năm hàng rào ngăn chận cho ta khỏi rơi xuống vực sâu trong khi ta đi trên đường giải-thoát. 

II.  NĂM GIỚI 

1.  Không được giết hại

Ðiều răn cấm thứ nhất mà Phật khuyen chúng ta là không được giết hại sanh mạng từ loài người cho đến loài vật.  Sanh mạng có một giá trị quý-báu, nhất là sanh mạng người; giết sanh-mạng kia để tô bồi sanh-mạng này là một điều ác, không hợp lý đạo. 

Phật-giáo cấm sát-sanh bởi nhiều lý-do: 

a)      Tôn-trọng sự công-bằng.  – Chúng ta ai cũng coi sanh-mạng mình là quý, là một của báu tuyệt-đối.  Nếu ai mưu hại, là mình chống trả quyết liệt để bảo-vệ sinh-mạng.  Mình đã biết quý-trọng thân-mạng mình, tại sao lại muốn chà-đạp sanh-mạng người ?  Suy rộng ra, các loài vật cũng biết quý-trọng mạnh chúng.  Như khi một con bò hay một con heo sắp bị đập đầu, thọc huyết, ta thấy sự phản-kháng mãnh liệt, sự đau thương cùng-cực của chúng, bằng những tiếng kêu gào, những cái giẫy-giụa thoát chết !  Theo lẽ công-bình, điều ta không muốn ai làm cho ta, thì ra cũng đừng làm cho người khác hay loài khác.  Phật dạy: “Ai ai cũng sự gươm đao, ai ai cũng sợ sự chết.  Vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết !”. 

b)      Tôn-trọng Phật-tánh bình-đẳng.  – Chúng sanh mỗi loài tuy thân hình khác nhau, mà vẫn đồng một Phật-tánh.  Phật-tánh ở người có giá-trị hơn ở vật, ở giai-cấp này, màu da này có giá-trị hơn ở giai-cấp kia, màu da kia.  Sát-hại một sanh-vật là sát-hại Phật-tánh. 

c)      Nuôi-dưỡng lòng từ-bi.  – Lòng từ-bi của đức Phật xem mọi loài như con, nên Ngài không đồng ý cho đệ-tử Ngài sát hại sanh-vật bất cứ trong trường hợp nào.  Bởi vì đang-tâm giết-hại sanh-mạng là lòng độc-ác đã cực-thịnh, tâm từ-bi bị bóp nghẹt.  Nhẫn-tâm vô cớ giết một con vật, tính bạo-ác không kém giết một người.  Nhẫn-tâm làm cho kẻ khác hay vật khác phải giãy-giụa, rên-siết, quằn-quại trong máu đào, trong lệ nóng nước trước khi trút hơi thở cuối cùng, là tự giết lòng từ-bi của mình, là bóp chết cái mầm thương-yêu rất quý-báu trong tâm-hồn chúng ta.  Như thế, khó mà tu-hành để thành chánh-quả được.  Ðức Khổng-tử có nói: “Văn kỳ thanh, bất nhẫn thực kỳ nhục, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử”.  (Nghe tiếng kêu la của con vật, không nỡ ăn thịt nó, thấy nó sống, không đành thấy nó chết).  Như vậy, người có tâm từ-bi hay lòng nhân đều không nỡ sát hại người hay vật. 

d)      Tránh nhân-quả báo-ứng oán-thù.  – Khi ta giết một người hay một con vật thì sự oán hận của họ tràn trề, khó dập tắt được.  Họ vì cô thế, vì yếu sức nên bị ta giết hại.  Trong khi ấy họ ôm khối căm hận, chờ gặp dịp báo thù hay con cái, thân thích họ sẽ báo thù lại.  Cứ thế, mỗi ngày ta đều gieo căm-hờn cho người và vật tích-lũy lâu ngày, khối oan-gia ấy to hơn sức ta, chừng ấy ta sẽ bị nó sát-hại lại.  Càng tạo nghiệp sát, càng lao mình vào vòng đau khổ.  Phật dạy: “Thường sanh tâm sát-hại, càng tăng trưởng nghiệp khổ, mãi xoay-vần trong sanh tử không có ngày ra khỏi” (kinh Lăng-già). 

LỢI ÍCH CỦA SỰ KHÔNG GIẾT-HẠI

Vì những lý-do trên, đức Phật cấm Phật-tử giết hại.  Không giết hại, sẽ có những điều lợi sau đây: 

a)       Về Phương-diện cá-nhân.  – Một người không tàn-nhẫn sát-nhân, hại vật, không độc ác làm đổ máu, không lóc da, xé thịt, chặt đầu, thắt cổ thì trong lòng không bức-rức, hối-hận, thân-tâm được nhẹ-nhàng, thư-thới, giấc ngủ được an-lành, nét mặt được hiền-hòa, trong sáng. 

b)       Về phương-diện xã-hội.  - Nếu tất cả nhân loại trên thế-giới này đều giữ đúng luật thứ nhất này của Phật thì chiến-tranh sẽ không có, mà các nghiệp sanh-tử luân-hồi cũng được giải-thoát.  Cho nên Tổ xưa có dạy: 

Nhứt thiết chúng-sanh vô sát-nghiệp,

Thập phương hà xá động đao-binh ?

Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện,

Thiên-hạ hà sầu bất thái-bình ? 

            Nghĩa là;          Hết thảy chúng-sanh không nghiệp giết,

                                    Mười phương nào có nổi đao-binh ?

                                    Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện,

                                    Lo gì thiên-hạ chẳng thái-bình ? 

            Hạn chế:  Vẫn biết giết hại là tạo nhân khổ, nhưng người tại-gia còn ăn mặn, còn làm công kia việc nọ, thì khó tránh khỏi phạm giới sát.  Ở đây không bắt-buộc chúng ta phải triệt-để như thế, chỉ cần giữ phần quan trọng là không giết người, và các con vật lớn như trâu, bò, ngựa, chó, heo… 

            Còn những con vật nhỏ, nếu tránh giết được bao nhiêu thì quý bấy nhiêu.  Chúng ta nên đi từ từ thì chắc-chắn hơn.  Nhất là không nên giết hại sinh vật một cách vô ích, giết để thỏa lòng thích giết.

            Trong khi giữ giới sát, chúng ta nên đề phòng hai đều sau đây:  

a)      Không nên để cho ác-ý sanh-khởi.  Giết một con vật lớn mà vì vô ý hay vì tự-vệ, thì cái quả của nó còn nhẹ hơn là giết một con chuồn-chuồn với cái ác-ý muốn giết cho vui tay. 

b)      Nên tránh sự huân-tập trong hoàn cảnh giết hại:  Những đứa bé lên 3, lên 5 ra sân gặp chuồn-chuồn, bươm-bướm chụp bắt rồi ngắt cánh, rứt đầu, nếu cha mẹ thấy mà không la-rầy; đến 12, 13 tuổi, chúng sắm ná giây thun bắn chim, đến 20, 25 tuổi, chúng đâm họng heo, giết chó, vẫn không bị ngăn-cấm, thì sau này, quen với tánh hung-bạo, trong cơn giận dữ, chúng có thể giết người không gớm tay.  Vậy, không những chúng ta không nên để tự-do cho con cái quen với sự giết-hại sinh-vật, mà cũng không nên cho chúng mục-kích những cảnh chém giết ở các rạp chiếu bóng hay ở giữa đời.   

2.       Không được trộm-cướp 

Ai cũng biết trộm cướp là lấy những vật thuộc-quyền sở-hữu, của người, mà không có sự ưng-thuận, hay cưỡng-ép người ta ưng-thuận bằng võ-lực hay quyền-hành.  Những vật quý giá như nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc, ngọc ngà… cho đến vật hèn-mọn như lá trầu, trái ớit v.v… người ta không cho mà mình cố lấy đều là trộm cướp. 

Trộm cướp có nhiều hình thức: Ỷ mạnh bè đảng giựt ngang của người là ăn cướp; cậy thế ỷ quyền làm tiền kẻ là ăn cướp; bắt chẹt người ta trong lúc túng thiếu để cho vay nặng lời, cầm bán với giá rẻ mạt là ăn cướp; tích-trữ đầu-cơ để bán giá chợ đen là ăn cướp.  Dùng mưu mẹo rình-rập lén lút lấy của người là ăn trộm; cân non, đong thiếu, trốn xâu, lậu thuế, được của người ta mà không tìm cách trả lại cũng là ăn trộm.  Có thể nói tóm một câu là : bất cứ hình-thức nào, do lòng gian-tham lấy của người bất chính đều là trộm cướp cả. 

Nếu vì nghèo nàn túng-thiếu, vợ ốm con đau, thiếu gạo, thiếu thuốc, nên phải buộc lòng gian-xảo, thì tội còn được châm-chế; chứ đã giàu có, ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa mà còn lường-gạt người lấy của, cướp công, để sống một cách vương giả trên mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo đói, thì tội ác thật nặng-nề ! 

Vì lý-do gì Phật cấm trộm cướp? - Phật cấm trộm cướp vì những lý do sau đây: 

a)      Tôn-trọng sự công-bằng:  - Chúng ta không muốn ai lấy của mình, tại sao lại chăm-chăm muốn đoạt của người ?  Quyền sở-hữu cá nhân của ta, ta biết tôn-trọng thì tại sao ta lại chà-đạp lên quyền sở-hữu của người ?  Làm như thế là trái lẽ công-bằng.  Một xã-hội mà thiếu công-bằng thì không thể tồn-tại lâu dài được. 

b)      Tôn-trọngsự bình-đẳng:  - Mỗi người đều có Phật tánh như nhau, tại sao ta lại muốn hướng những đặc-ân bất chính trong khi ta cũng chỉ là một con người như bao nhiêu con người khác ? 

c)      Nuôi-dưỡng lòng từ-bi:  - Một khi vô ý đánh mất vật gì hay một số tiền, ta dàu dàu buồn khổ, ăn không ngon, ngủ không yên, tại sao ta nỡ tâm lấy của người để cho người ta phải khóc than, đau-khổ vì ta ?  Người ta thường nói: “Tiền-tài là huyết mạch”.  Như vậy, kẻ cướp đoạt của người tức là cướp đoạt xương máu người, sát-hại sinh-mạng người vậy.  Chỉ những người không có lòng thương người, tán-tận lương-tâm mới làm những việc đen-tối như vậy.  Còn ta, đã là Phật-tử, đang cố-gắng nuôi-dưỡng lòng từ-bi, ta không thể trộm cướp của ai được. 

d)      Tránh nghiệp-báo oán-thù:  - Trong xã-hội có tổ-chức, trọng lẽ công-bằng, thì tội trộm cướp bao giờ cũng bị trừng-trị.  Ăn trọm thì bị đưa ra tòa-án tiểu-hình, ăn cướp thì ra tòa án đại-hình.  Khi chưa bị bắt, kẻ trộm cướp phải tìm trăm phương ngàn kế để trốn tránh, sống chui-rúc trong bóng tối.  Khi bị bắt, người trộm cướp phải bị trói buộc, tra-khảo, ngồi tù, nhốt khám.  Phận mình đã đành cực thân khổ trí, nhưng gia-đình mình, cha mẹ, vợ con cũng buồn-rầu, xấu-hổ và mất hết hy-vọng ở tương lai. 

Nhưng nếu luật pháp thế-gian không trừng trị, thì người trộm cướp cũng không thoát khỏi luật nhân-quả nghiệp-báo.  Trộm cướp của người thì sẽ bị người trộm cướp lại, gây bao thù-oán, khổ đau.  Phật dạy: “Người tham luyến sắc-tài không chịu rời bỏ, cũng như đứa bé luyến-tiếc một chút mật dính trên lưỡi dao, thè lưỡi liếm, phải bị cái họa đứt luỡi” (kinh Tứ-thập-nhị chương).  Chính thế, vì tham tiền của, lắm người đã tự gieo mình vào khám-đường, vào địa-ngục.  Chúng ta hãy lắng nghe bài kệ cảnh-tĩnh của vua Trần-thái-Tông : 

            Tạc bích xuyên tường ý bất hưu,

            Thiên ban bách kế, khổ vinh cầu;

            Kim sanh cầu đắc tha nhơn vật,

            Bất giác chung thiên thọ mã ngưư. 

Dịch:   Khoé vách đào tường chí những đâu,

            Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu;

            Của người dầu có đời nay được,

            Ðời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu. 

Vì những lý do trên, nên đức Phật cấm đệ-tử trộm cướp. 

LỢI ÍCH CỦA SỰ KHÔNG TRỘM CƯỚP 

a)      Về phương- diện cá-nhân.  - Người không gian tham thì đời sống hiện-tại được an-ổn không bị đòi hỏi, giam cầm tù tội, đi đâu cũng được người khác tin cậy, giao-phó cho mình những địa-vị quan-trọng.  Người không gian tham thì đời sau hưởng phước báu giàu sang, an-vui và con cháu nhiều đời cũng nhờ thừa hưởng âm chất của ông bà, cha mẹ mà được vinh-hiển. 

b)      Về phương-diện đoàn-thể.  - Nếu một ngày nào trong xã-hội không ai có tâm gian tham, trộm cướp thì nhà không cần đóng cửa, của khỏi giữ-gìn, vật đánh roi không mất, thật không còn gì sung-sướng hơn !  Người ta khổ bởi không có của, những kẻ có của nhiều cũng vẫn khổ, vì phải lo giữ-gìn.  Người không trộm cướp tức là đã âm-thầm ban cho người khác sự an-ổn rồi. 

Nhà Nho có câu: “Nhơn phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ”.  Huống chi chúng ta là Phật-tử lại đi trộm cướp hay sao ? 

3.       Không được tà-dâm 

Tà-dâm tức là muốn nói về sự dâm-dục phi-lễ, phi-pháp.  Luật dạy người xuất-gia ly tục phải dứt hẳn dâm-dục, còn người tại-gia thì không tà-dục.  Khi vợ chồng có cưới hỏi đủ lễ gọi là chánh ;  ngoài ra, lén-lút lang chạ làm việc phi-pháp gọi là tà.  Nhưng nếu vợ chồng chánh-thức đi nữa, mà ăn nằm không phải chỗ, gần-gũi nhau không chừng mực thì cũng thuộc về tà-dâm cả.  Ðó là nói về mặt thô-thiển.  Nói một cách vi-tế hơn, thì phàm những sự phóng tâm đắm sắc, nghĩ-ngợi bất chánh, chơi-bời lả-lơi, cũng đều thuộc về loại tà-dâm cả. 

Phật cấm tà-dâm vì những lý-do sau đây: 

a)      Tôn-trọng sự công-bình.  - Mỗi người ai cũng muốn gia-đình mình đầm-ấm yên vui, vợ con mình đoan-chánh, thì sao lại đi phá hại gia-cang, làm nhục-nhã tông môn người đưa vợ con người vào con đường dâm-loạn.

b)      Bảo-vệ hạnh-phúc gia-đình.  - Không gì đau-khổ, đen-tối hơn khi trong một gia-đình mà người chồng hoặc vợ có dạ riêng tư, tà-dại.  Hạnh-phúc đâu còn, khi chồng vợ không tin nhau.  Khi một gia-đình lâm vào cảnh ấy thì con-cái sẽ xấu-hổ, bê-tha, côi-cút, bà con không đoái-hoài đến, sự nghiệp tan-tành, làng xóm chê-bai, danh-giá hoen-ố.  Ðiều-kiện thiết yếu để giữ vững hạnh-phúc gia-đình chính là lòng chung-thỉ của hai vợ chồng.  Người ta thường bảo: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Ðông cũng cạn”.  Vì sự tà-dâm của một trong hai người bạn đường, mà trong gia-đình thường xảy ra những sự ghen-tương, cải-vã đánh-đập có khi đến gây án-mạng.  Có khi, để trả thù, người ta thường thấy xảy ra cái cảnh “ông ăn chả, bà ăn nem”.  Một người chồng để tâm dòm ngó vợ con người, thì chính vợ con của họ cũng lăm-le vạch rào sang nhà kẻ khác rồi.  Họ phá hạnh-phúc gia-đình người, thì chính hạnh-phúc gia-đình của họ cũng đã tan rã trước. 

Cho nên cấm tà-dâm là một điều kiện cần-thiết để xây-dựng hạnh-phúc cho gia-đình mình và gia-đình người. 

c)      Tránh oán-thù và quả-báo xấu-xa.  - Phật dạy: “Người ôm lòng ái-dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay” (kinh Tứ-thập-nhị chương).  Thật vậy, người có tâm xấu-xa đắm-mê sắc-dục, không sớm thì chầy quyết bị hại : nếu không tan nhà mất nước, thì cũng gãy chân mất mạng bởi mũi súng, ngọn-gươm.  Xưa nay, những kết quả thảm-khốc đen tối, do sự đắm mê sắc-dục gây ra không thiếu gì; chúng ta chỉ cần dỡ những chồng sách lịch-sử hay chồng báo hằng ngày, sẽ thấy nhan-nhản trong mỗi trang mỗi đoạn. 

Trong cá sự oán-thù, không có sự oán-thù nào mãnh-liệt bằng sự oán-thù do sự lừa-dối hay phụ-rẫy về tình-ái gây ra.  Các cuộc án mạng xảy ra hằng ngày, phần lớn là kết-quả của tà-dâm. 

LỢI ÍCH CỦA SỰ KHÔNG TÀ-DÂM 

Vì thế nên sự giữ giới cấm tà-dâm sẽ có nhiều lợi-ích sau đây: 

a)      Về phương-diện cá-nhân.  – Kinh Thập thiện nói : 

“Người thế-gian không tà hạnh thì được hưởng bốn điều lợi như sau: 

-          Sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn-toàn.

-          Trọn đời được người kính trọng.

-          Ðoạn trừ hết cả phiền-lụy khuấy nhiễu.

-          Cuộc tình-duyên trọn đời không ai dám xâm-phạm. 

b)      Về phương-diện đoàn-thể.  – Trong một xã-hội mà ai cũng không tà-hạnh, thì gia-đình được yên vui hạnh-phúc, những sự thường luân bại lý sẽ tiêu-tan, những cảnh thù-hiềm, chém giết không xảy ra nữa; con-cái được mạnh-khỏe; nâng-niu, xã-hội sẽ cường-thịnh. 

Nói tóm lại cõi Ta-bà ô-trọc, đau khổ này sẽ biến thành thế-giới thanh-tịnh, an-vui. 

4.       Không được nói sai sự thật 

Nói sau sự thật có bốn cách : Nói dối, nói thêu-dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung-ác. 

a)      Nói dối hay nói láo, là nói không thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạt; hay là khi ưa thì dịu ngọt thơm-tho, khi ghét lại đắng cay chua-chát. 

Tóm lại, ý nghĩ, lời nói, việc làm trước sau mâu-thuẫn trên dưới khác nhau, trong ngoài bất nhứt đều thuộc về nói dối cả. 

b)      Nói thêu dệt, là việc ít xít cho nhiều làm cho người nghe nỗi sân-hận; là trao-tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám-dỗ người nghe, làm cho người say-mê đắm-nhiễm; cũng có khi là nói biếm, nói bâm, nói châm, nói chích làm cho người nghe phải khổ-sở. 

Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt, cho đến văn-chương phù-phiếm bóng-bẩy làm cho kẻ khác nghe phải loạn tâm, sanh phiền-não, đều gọi là nói thêu-dệt cả. 

c)      Nói lưỡi hai chiều, hay nôm-na hơn là nói “đòn xóc nhọn hai đầu”, nghĩa là đến chỗ này thì về hùa với bên này để nói xấu bên kia, đến bên kia thì về hùa với bên đó để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau trở lại chống nhau, kẻ ân người nghĩa chống đối, oán thù nhau. 

d)      Nói lời hung-ác, là nói những tiếng thô tục, cộc-cằn, chửi rủa, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn-rầu, sợ-hãi.

Vì sao Phật cấm nói sai sự thật?  - Phật cấm nói sai sự thật vì những lý-do sau đây: 

a)      Tôn-trọng sự thật.  - Ðạo Phật là đạo như thật; người tu theo đạo Phật phải tôn trọng sự-thật.  Người quen với dối-trá, không biết tìm sự thật thì khó có thể chứng quả được.  Chúng ta đang sống trong vọng-tưởng, công việc chính của người tu-hành là cố-gắng phá tan vọng-tưởng ấy để thấy được bản-nguyện; nếu không làm được như thế mà trái lại còn chồng chất thêm cái vọng-tưởng ấy với những sự dối-trá lừa-phỉnh nữa, thì thật là vô cùng trái đạo. 

b)      Nuôi dưỡng lòng từ-bi.  – Cái động lực chính của sự dối-trá là lòng ích-kỷ, ác-độc muốn hại người để thỏa lòng dục-vọng đen tối của mình.  Người bị lừa dối, phỉnh-gạt phải đau khổ vì mình, có khi phải mắc thù vương oán, có khi phải tan gia bại sản.  Người tu-hành mà làm như thế là đã tán tận lương tâm, đã bóp chết tình thương trong lòng họ rồi.  Một khi lòng từ-bi không có nữa, nghĩa là cái động lực chính đã mất, thì sự tu-hành chỉ còn là giả-dối, lừa-bịp người và tất-nhiên không bao giờ có kết-quả tốt. 

c)      Bảo-tồn sự trung tín trong xã-hội.  – Trong một gia-đình, một đoàn-thể, một xã-hội mà không ai tin ai, thì mọi công-cuộc từ nhỏ đến lớn đều thất bại.  Trong đạo Nho, một trong năm đức tính căn-bản là lòng tin.  “Nhân vô tính bất lập”, đó là lời dạy của Khổng-Tử.  Hạnh-phúc gia-đình và xã-hội không thể có được trong sự dối-trá, nghi-ngờ, đố kỵ. 

d)      Tránh nghiệp-báo khổ-đau.   - Lời nói tuy không phải à lưỡi kiếm, nhưng nó nguy-hiểm hơn lưỡi liếm, vì nó có hai mũi nhọn, một mũi đâm vào người khác và một mũi đâm vào chính người xử-dụng nó.  Ai ai chắc cũng chưa quên câu chuyện thằng bé chăn cừu muốn đánh lừa làng xóm, bằng cách la “lửa ! lửa!”, nhưng nó chỉ phỉnh người được một lần; lần sau, nhà nó cháy thật, mặc dù nó kêu la thảm-thiết cũng không ai thèm đến chữa nữa.  Ðấy, người dối-trá chỉ gây họa cho mình.  Do đó Phật dạy: “Phù sĩ xử thế phủ tại khẩu trung, sở-dĩ trảm thân do kỳ ác ngôn”, nghĩa là : Phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở-dĩ chém mình là do lời nói ác.  Ðã đành nói ly-gián, nói xuyên-tạc là để hại người, nhưng khi đã làm hại người thì thế nào người cũng hại lại.  “Ác lai ác báo” là thế.  Ðể tránh sự thù-hằn, tránh nghiệp dữ, chúng ta không nên dối-trá, điêu-ngoa. 

LỢI ÍCH CỦA SỰ KHÔNG DỐI-TRÁ 

a)      Về phương-diện cá-nhân.  - Ðược người trọng-nể, tin cậy, không ai oán-hận thù-hiềm; đi đâu cũng được người chung quanh dành cho một địa-vị thân tín, niềm-nỡ đón tiếp.  Trong nghề-nghiệp làm ăn, người chân-thật được nhiều thân-chủ, và được giao-phó cho nhiều trọng-trách quý-báu. 

b)      Về phương-diện đoàn-thể.  - Gia-đình và xã-hội được đoàn-kết trong sự tin-cậy.  Mọi công-cuộc chung được xúc-tiến có kết-quả tốt.  Nhân-loại thương yêu, thông-cảm nhau hơn. 

Hạn chế: Nói dối là một tai-họa lớn-lao cho mình và xã-hội.  Tuy nhiên, cũng có vài trường-hợp nên nói dối.  Ðó là khi nào vì lòng từ-bi mà phải nói dối để cứu người hay vật.  Nói dối phạm tội là trong trường-hợp do lòng tham, sân làm động-cơ thúc-đẩy.  Ngược lại, nếu do lòng từ-bi thúc-đẩy mà phải nói dối, thì không phạm tội. 

5.       Không được uống rượu 

Tất cả những thứ có chất men làm say người, hay chất độc hại người đều không được uống.  Chính mình không uống đã đành mà cũng không được ép nài người khác uống.  Ép nài, khuyến-khích người khác uống, tội lại nặng hơn cả chính mình uống nữa.  Lúc lâm bịnh nặng, uống các thứ thuốc không lành, lương-y bảo phải dùng rượu hòa vào thuốc, thì được tạm dùng.  Nhưng trước khi dùng phải bạch cho chúng Tăng biết.  Khi hết bịnh, không được tiếp-tục uống thuốc có hòa rượu ấy nữa. 

Vì những lý-do gì Phật cấm uống rượu?  - Phật cấm uống rượu vì những lý do sau đây: 

a)      Bảo-toàn hạt giống trí-huệ.  - Rượu còn nguy-hiểm hơn thuốc độc.  Một chén thuốc độc ta uống vào chết ngay, nhưng chỉ chết một thân hiện-tại, chứ rượu uống vào làm mất giống trí-huệ, phải chết đi sống lại vô số kiếp.  Vì thế, để bảo-toàn hạt giống trí-huệ quý-báu, nên Phật cấm uống rượu. 

b)      Ngăn-ngừa những nguyên-nhân sanh ra tội-lỗi.  - Rượu chính nó không phải là một tội lỗi như sát-sanh, trộm cướp, tà-dâm, nhưng nó có thể làm nhân cho những tội-lỗi kia sanh ra.  Khi đã uống rượu vào say sưa, thì tội nào cũng có thể phạm được.  Dưới đây là một câu chuyện chứng-minh cho điều đó: 

Một anh nông-phu kia đang cày ruộng giữa đồng, bỗng thấy hiện ra sừng-sững trước mặt mình một hung-thần to lớn, kỳ-dị, hăm giết anh.  Anh kinh-sợ, khóc-lóc xin tha mạng.  Vị hung thần bảo: 

-          Nếu ngươi làm một trong ba việc này thì ta tha chết cho : hoặc là giết cha ngươi, hoặc là đánh mẹ ngươi hay uống hết lít rượu để trên bàn nhà ngươi. 

Anh nông-phu suy-nghĩ một hồi rồi trả lời: 

-          Xin ngài cho con được uống lít rượu. 

Ác thần nghe xong, có vẻ hài lòng, rồi biến mất. 

Trưa hôm ấy, anh nông-phu về nhà, thấy lít rượu mà ông thân mua về đễ đãi khách, vì nhà sắp có giỗ, anh ta vội-vàng chụp lấy, nốc cạn một hơi.  Cha anh thấy đứa con hỗn láo nắm gậy xông lại đánh mắng con.  Ma men đã thấm, anh ta không còn biết phải trái, giựt gậy của cha, đánh ông một cây chết tốt !  Bà mẹ chạy đến ôm con la làng.  Anh ta chưa hả cơn giận, đánh mẹ túi bụi.  Làng xóm chạy lại bắt anh dẫn lên quan vì tội giết cha đánh mẹ.  Tỉnh lại anh mới biết uống rượu là tội nặng nhứt trong ba điều mà hung-thần đã bắt anh làm. 

            Tóm lại, rượu gây ra rất nhiều tội-lỗi.  Sau đay là mười tai-hại của rượu mà trong kinh đã nói đến: 

-          Của cải rơi mất.

-          Thân hay tật bệnh.

-          Tăng-trưởng lòng giết-hại.

-          Tâm sân hận bồng-bột, ưa cãi lẫy.

-          Trí-huệ kém dần.

-          Phước đức tiêu mòn.

-          Tuổi thọ giảm bớt.

-          Thâm tâm nhiều khổ.

-          Mạng-chung đọa vào địa-ngục.

LỢI ÍCH CỦA SỰ CẤM RƯỢU 

a)      Về phương-diện cá-nhân.  - Người không uống rượu thì tránh được mười điều hại vừa kể trên : không mất tiền của, thân ít bệnh tật, không sinh lòng ác-độc giết-hại, bớt nóng giận, trí-huệ tăng trưởng, tuổi thọ càng cao v.v… 

b)      Về phương-diện đoàn-thể.  - Gia-đình được yên-vui, con-cái ít bệnh tật, xã-hội được hòa-mục, nòi-giống được hùng-cường. 

C.  Kết luận: 

1.  Phật-tử không giữ giới không phải là Phật-tử.  Chúng ta đã thấy công-dụng thiết thực lợi-ích của năm giới về phương-diện cá nhân và đoàn thể.  Nếu Tam-quy là nền tảng thì Ngũ-giới là năm nấc thang của người Phật-tử tại-gia để bước dần lên Thánh-quả.  Trong bước đầu, người Phật-tử nếu có thể phát nguyện giữ cả năm giới thì càng tốt; nếu vì nhiều sự ràng-buộc chưa thể giữ được cả năm giới thì có thể giữ vài giới mà mình thấy có thể thực-hành được, như : không uống rượu, không nói dối.  Rồi với sự tinh-thần và Bồ-đề tâm dõng-mãnh, ta tiếp tục phát-nguyện giữ thêm những giới khác như không trộm cắp, không tà-dâm…  Nhưng đã phát-nguyện giữ giới nào thì giữ cho trung kiên, đừng có một bước tiến tới, hai bước thoái-lui, dùng-dằng như thế mãi thì không bao giời đi đến đâu cả. 

Nếu người Phật-tử mà không giữ được giới nào, thì sao gọi được là Phật-tử ?  Người thường, không theo Ðạo Phật mà còn có thể giữ đúng tư-cách như không uống rượu, không nói dối, không trộm cắp thay, huống hồ là Phật-tử.  Ta đến với đạo Phật là vì muốn vượt lên trên đời tầm-thường của thế-nhân.  Nếu chúng ta vào Ðạo rồi mà vẫn tiếp-tục cuộc đời trôi nỗi cũ, hay còn tệ hơn cuộc đời thường của thế-nhân, thì đó là chúng ta muốn làm hoen ố Ðạo, chứ không phải là ngưỡng-mộ Ðạo. 

Cho nên, người Phật-tử phải cố-gắng giữ giới để cho xứng-đáng với danh-nghĩa của mình, để đem hạnh-phúc đến cho mình và chúng-sanh 

2.  Người không theo đạo Phật cũng nên giữ giới.  Năm giới nói trên không có gì là cao-siêu, huyền-bí.  Ðó là bài học công dân thông-thường mà bất cứ một xã-hội nào, một quốc-gia nào cũng muốn phồn-thịnh, hùng-cường cũng không thể bỏ sót được.  Cho nên năm điều luật ấy không phải chỉ để áp-dụng riêng cho giới Phật-tử, mà còn chung cho tất cả những ai muốn sống một cuộc sống lành-mạnh, an-vui, có lễ nghĩa và tiến-bộ. 

Một xã-hội mà mọi phần-tử đều thực hiện được năm giới cấm ấy, thì đó là một xã-hội gương mẫu, văn-minh nhứt thế-giới.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ I )
SÁM HỐI
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712