Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Từ Thành Đạo Đến Nhập Niết Bàn)

LỊCH-SỬ ÐỨC PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI

(TỪ THÀNH-ÐẠO ÐẾN NHẬP NIẾT-BÀN)

            A. Mở Ðề

Trong bài trước, chúng ta đã thấy đức Phật Thích-Ca vì một đại-nguyện lớn-lao, vì một lòng từ-bi vô bờ bến mà xuất-gia tìm-Ðạo.  Ðại-nguyện và lòng từ-bi lớn-lao đó là: “Cầu thành Phật quả để trên đền-đáp bốn ơn sâu, dưới cứu-vớt ba đường khổ”.  Cho nên sau khi giác-ngộ, Ngài không vội nhập Niết-bàn, mà nghĩ ngay đến sứ-mạng của Ngài là: thay thế chư Phật đời trước, tiếp-tục chuyển mê khai-ngộ cho tất cả mọi người.

Sứ-mạng ấy Ngài biết trước không phải dễ-dàng, vì cái Ðạo của Ngài thì cao-thâm huyền-diệu, mà căn-cơ chúng-sanh lại không đều, và từ muôn kiếp đã lặn-hụp trong si-mê lầm lạc, khó có thể nhận hiểu ngay được ý-nghĩa cao-thâm giáo-lý của Ngài.  Chúng-sanh từ lâu đời lâu kiếp quen sống trong bóng tối của si-mê, ngày nay chắc không khỏi chóa mắt, hoảng-sợ khi tiếp-xúc với ánh sáng bừng chói của Trí-huệ. 

Nhưng Ngài xét biết rằng mặc dù sống trong tăm-tối, mỗi chúng-sanh đều có mầm Phật-tánh, như hoa-sen, mặc dù sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn tỏa nhụy vàng thơm ngát.  Ngài cương-quyết thực-hiện sứ-mạng của mình. 

            B. Chánh Ðề

I.  SỰ HÓA-ÐỘ RỘNG LỚN VÀ CÙNG KHẮP CỦA ÐỨC PHẬT 

Sứ-mạng hóa-độ của đức Phật, như chúng ta đã biết, thật nặng-nề và khó-khăn, nhưng nhờ trí-huệ sáng-suốt, nhờ lòng từ-bi rộng sâu, nhờ tinh-thần bình-đẳng triệt-để và nhờ ý-chí dõng-mãnh không thối-chuyển mà đức Phật đã hoàn-thành sứ-mạng của mình một cách viên-mãn.  Trong khi hóa độ, Ngài đã dựa theo ba nguyên-tắc sau đây: 

1.      Hóa-độ theo thứ lớp, căn-cơ. 

Khi bắt đầu đi truyền đạo, ý-nghĩa trước tiên của Ngài là đến vườn Lộc-uyển tìm mấy người bạn đồng tu với Ngài trước kia, để thuyết pháp.  Mấy người bạn đó là: Kiều-trần-như, Ác-bệ, Thập-lực, Ma-ha-nam và Bạc-đề.  Bài thuyết-pháp đầu tiên ấy là Tứ-diệu-đế.  Năm vị này đều được khai-ngộ và trở thành năm đệ-tử đầu tiên của Ngài.  Kế đó, Ngài thuyết-pháp luôn trong 3 tháng cho 55 người Bà-la-môn, mà người đứng đầu là ông Da-xá.  55 người này đều xin quy-y theo Ngài và họp với 5 người trong nhóm ông Kiều-trần-như thành 60 đệ-tử.  60 người đệ-tử này, sau khi giữ đúng giới-luật, được Ngài thọ-ký cho đi truyền Ðạo khắp nơi. 

Ngài rời Lộc-uyển đi về phía Nam đến xứ Ưu-lầu-tần-loa để hàng-phục một vị Tổ-sư rất có uy-tín của Ðạo thờ Thần-lửa là ông Ma-ha Ca-diếp và hai em ông. 

Ông Ca-diếp đem tất cả số đệ-tử của mình gồm 1250 vị xin quy-y theo Phật. 

Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần-bà-xà-la, Ngài đi đến xứ Ma-kiệt-đà vào thành Vương-xá để độ vua.  Vua Tần-bà-xa-la gặp lại Ngài, vui-mừng khôn xiết, truyền xây cất tịnh-xá Trúc-lâm để thỉnh Phật và chúng Tăng ở lại thuyết-pháp độ sanh.

Trong lúc Phật ở lại tịnh-xá Trúc-lâm thì vua Tịnh-phạn nghe tin Ngài đã thành Phật, truyền sứ-giả đi thỉnh Ngài về thành Ca-tỳ-la-vệ.  Nhưng chín lần, chín vị sứ-giả ra đi đều biệt tăm, không trở lại.  Thì ra những người ngày khi đi đến Trúc-lâm nghe Ngài thuyết-pháp, đã say-mê quên sứ-mạng của mình và xin thọ giới xuất-gia. 

Lần thứ mười, Tịnh-phạn-vương sai một cận-thần thân tín là Tu-đà-di, mới thỉnh được Phật về.  Trên đường từ thành Vương-xá trở về Ca-tỳ-la-vệ, đức Phật đã thuyết-pháp độ không biết bao nhiêu người.  Về thành Ca-tỳ-la-vệ, Ngài ở lại bảy ngày.  Mặc dù chỉ trong khoảng thời-gian ngắn ngủi ấy, Ngài cũng đã cảm-hóa tất cả dòng họ Thích và tất cả những người trong giòng họ này đều xin xuất-gia theo Phật, như các ông: Nan-đà, A-nan-đà, A-nâu-lâu-đà, La-hầu-la… 

Sau khi trở về thăm gia-đình và quê-hương, đức Phật cùng các đệ-tử lại tiếp tục đi truyền đạo.  Ngài đi đến thành Xá-vệ là kinh-đô nước Kiều-tát-la, thuộc quyền thống vị đại-thần tên là Tu-đạt-đa, giàu lòng bố-thí cho kẻ bần-cùng côi-cút, nên được gọi danh hiệu là Cấp-cô-độc trưởng giả.  Ông rất ngưỡng-mộ đức Phật nên đã trút tất cả tiền của vàng-bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái-tử Kỳ-đà để làm tịnh-xá cho Phật và đệ-tử của Ngài ở, thuyết-pháp độ sanh. 

Ðược ít lâu, nghe tin vua Tịnh-phạn đau nặng, sắp thăng-hà, đức Phật vội-vã trở về thăm cha lần cuối-cùng.  Thấy phụ-thân buồn-rầu trên giường bệnh, Phật thuyết về “Lẽ vô-thường, khổ, không, vô-ngã” cho vua nghe.  Nghe xong, vua liền dứt hết phiền-não gương mặt vui tươi, cất tiếng niệm Phật, rồi băng hà một cách êm-ái. 

Sau khi Tịnh-phạn-vương mất, bà mẹ nuôi của Phật là Ma-ha-ba-xà-ba-đề và bà Da-du-Ðà-la cùng nhiều người bên nữ giới họ Thích, xin Phật cho phép xuất-gia.  Từ đó trong đạo Phật, lần đầu tiên có hàng Tỳ-kheo-ni. 

Ðức Phật cùng các đệ-tử lại tiếp tục đi truyền Ðạo.  Ði đến đâu Ngài cũng được sùng-mộ, tin theo và nhiều người noi theo gương của ông Cấp-cô-độc lập tịnh-xá, cất giảng-đường để Ngài thuyết-pháp độ sanh. 

Như thế, chúng ta thấy đức Phật đã tuần-tự hóa-độ và kết-nạp đệ-tử, từ những hạng người đủ căn-trí dễ hiểu thấu giáo lý của Ngài rồi mới rộng ra những người khác, lập Tỳ-kheo trước, rồi Tỳ-kheo-ni sau. 

2.      Hóa-độ tùy phương-tiện. 

Trong suốt thời-kỳ đi thuyết-pháp độ sanh, lắm khi Ngài cũng gặp nhiều cảnh gay go, trái-ngược do lòng đố-kỵ của ngoại-đạo tà-giáo, hay lòng ganh-ghét của nội thân quyến-thuộc gây ra.  Nhưng lúc nào Ngài cũng tùy phương-tiện để cảm-hóa họ và đưa họ về đường ngay lẽ phải.  Chẳng hạn, khi thì Ngài bị cô gái con của ngoại-đạo độn bụng giả có chửa đến giữa đạo-tràng để vu-oan cho Ngài; khi thì Ngài bị anh chàng Vô-não đuổi theo quyết giết Ngài để lấy ngón tay góp thêm cho đủ số 1000 ngón mà nó đã giết người để lấy, vì theo thuyết tà-đạo, nó tin rằng có làm được như thế mới chứng quả; khi thì Ngài bị Ðề-bà-đạt-đa, người em họ hung-ác, âm-mưu hãm hại Ngài bằng cách thả bầy voi say cho chạy đến chà-đạp Ngài hay lăn đá to từ trên núi cao xuống đè Ngài. 

Nhưng tất cả những âm-mưu ấy đều vô hiệu-quả, vì oai-đức, uy-danh và trí-tuệ của Ngài bảo-bọc Ngài, không một hành động xấu-xa nào có thể thắng Ngài được.  Ngài có đủ phương-tiện khôn-ngoan khéo léo, xoay chiều đổi hướng dễ-dàng, hoán cải được tất cả những nghịch-cảnh trở thành thuận-lợi.  Và cuối cùng, kẻ khinh ghét Ngài trở lại kính-mến Ngài; người chống đối Ngài trở lại phục Ngài; kể ngoại-đạo trở thành Phật-tử.  Bằng chứng là: Ðề-bà-đạt-đa cũng được Ngài thọ-ký, anh chàng Vô-não cũng được quy-y, bầy voi say cũng được sám-hối, vua A-xà-thế cũng hối-cải và quay về đường thiện. 

Nói tóm lại, đức Phật co đủ muôn ngàn phương-tiện thích-ứng với mọi người, mọi vật, mọi hoàn-cảnh để hóa-độ tất cả những ai mà Ngài đã gặp trên đường truyền-đạo của Ngài.  Không phải chỉ ở ngoài đời, mà ngay trong Giáo-hội của Ngài, Ngài cũng tùy theo căn-cơ, tâm-lý của mỗi đệ-tử mà áp-dụng phương-pháp thích-hợp.  Chẳng hạn như đối với ông Nan-đà, mặc dù thân đã xuất-gia mà tâm vẫn muốn ngao-du, luyến-ái bạn bè, Ngài dùng thần-thông để đưa ông lên cõi trời xem những cảnh sống tốt đẹp vui thú khác thường, rồi đưa ông xuống địa-ngục mục-kích những hình phạt đau-đớn rùng-rợn, hãi-hùng để ông so-sánh hai cảnh đời trái ngược mà tự chọn lựa lấy một đường. 

Còn đối với ông A-nan, người học rộng nghe nhiều nhưng vì nghiệp-duyên còn nặng, nên mắc nạn “Ma-đăng-già”, thì Phật lại đem giáo-lý thâm-sâu là kinh Lăng-Nghiêm ra giảng dạy để cho ông A-nan thấy rõ được cái quý giá của chân-tâm mà lo tu-luyện chứ không giong-ruổi theo giả-cảnh nữa. 

Xem như thế thì đức Phật đã dùng phương-tiện để tùy-duyên hóa-độ, như người lương-y giỏi tùy bệnh cho thuốc, chứ không nhất-thiết phải theo một đường-lối cố-định nào cả.  Ðối với kẻ thân, người thù, đối với kẻ thông-minh hay người ngu-độn, đối với kẻ giàu, người nghèo, Ngài đều có đủ pháp môn cho họ khai-ngộ và quy-y theo Ngài. 

3.       Hóa-độ theo tinh-thần bình-đẳng. 

Tinh-thần triệt-để bình-đẳng là một điểm son quý giá nhất trong giáo-lý của đức Phật cũng như trong tâm-hồn của Ngài.  Ngay từ khi còn ấu-thơ, tinh-thần ấy đã được bộc-lộ trong những cử-chỉ cứu giúp những kẻ bần cùng, những con vật lâm nạn, như chúng ta đã thấy trong bài trước. 

            Khi thành đạo, tinh-thần bình-đẳng ấy lại bộc-lộ rõ-ràng hơn nữa.  Ngài đã có những câu nói bất-hủ, khiến cho ngày nay, người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thước ngọc.  Như khi Ngài xin nước của một người thuộc giai-cấp hạ-tiện nhất Ấn-độ, người này sợ làm lây ô-uế cho Ngài, thì Ngài phán bảo: “Không có giai-cấp trong dòng máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn.  Mỗi người sanh ra đều có Phật-tánh và có thể thành Phật”. 

            Trong giáo-hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc giai-cấp hạ-tiện.  Như ông Ưu-ba-ly, một đệ-tử có tiếng tăm của Ngài về phương-diện giới-luật, là một người thuộc giai-cấp hạ-tiện Chiên-đà-la, làm nghề gánh phẩn. 

            Sự thâu nhận ấy đã làm cho các vị vua chúa bất mãn.  Chính vua Ba-tư-nặc đã bạch Phật: “Ðấng Chí-tôn thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng Tăng-đồ như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn-lộn với châu-ngọc, làm mất giá-trị cao-quý của chúng Tăng sao ?”    . 

            Phật dạy rằng:

-          “Người hèn-hạ mà biết phát tâm Bồ-đề, xuất-gia tu-hành, chứng được quả Thánh thì quý-báu vô cùng, chẳng khác gì hoa-sen mọc ở bùn-lầy nhơ-bẩn mà vẫn tinh-khiết thơm-tho. 

Một người sanh ra không phải liền thành Bà-la-môn (giai-cấp trên hết) hay Chiên-đà-la (giai-cấp thấp nhất), mà chính vì sở hành của người ấy, tạo thành Chiên-đà-la hay Bà-la-môn”. 

            Ngài xâu giùm kim cho người mù, hoan-hỷ nhận hòn đất sét mà đứa bé đã nắn để dâng Ngài, thọ-lãnh bữa cơm cuối-cùng do một người đốt than nghèo-nàn dâng cúng. 

            Chính vì sự hóa-độ bình đẳng như thế mà kinh Ðại Niết-bàn đã tán-thán:           

            “Ðức Như-Lai không chỉ thuyết pháp cho các hạng người quyền-quý như vua Bạt-đề-ca, mà cũng thuyết-pháp cho hạng người bần-cùng như ông Ưu-ba-ly; không riêng thọ-lãnh sự cúng-dường của những người giàu có như ông Tu-đạt-đa mà cũng thọ-lãnh sự cúng-dưòng của các hạng nghèo khổ như ông Thuần-đà; không riêng cho phép xuất-gia các hạng không có tánh tham như Ngài Ca-diếp, mà cũng cho phép xuất-gia những người có nhiều tánh tham như ông Nan-đà.  Không những thuyết-pháp cho hạng người an-tịnh không dự việc đời, cũng thuyết-pháp cho vua Tần-bà-ta-la trong lúc đang bận-rộn việc nước.  Không những thuyết-pháp cho hạng thanh-niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết-pháp cho bà Hoàng-Hậu Mạt-ly, mà cũng thuyết-pháp cho dâm-nữ Liên-hoa”. 

II.  NĂM THỜI NÓI KINH 

            Tóm lại, trong một đời của đức Phật, tùy theo trình-độ của mọi người mà thuyết-pháp giáo-hóa, mãi đến khi Ngài nhập-diệt, cọng lại là 49 năm.  Những kinh pháp của Ngài nói ra về sau các đệ-tử kiết tập phân ra năm thời: 

1.      Thời thứ nhất Phật nói kinh Hoa-Nghiêm 

Khi Phật mới thành-đạo, ở tại cội Bồ-đề nói kinh Hoa-Nghiêm 21 ngày, vạch rõ chân tánh, chỉ bày chỗ cao-sâu mầu-nhiệm của đạo Phật.  Chủ-đích có hai điều:    

a)      Dắt-dẫn các bậc Bồ-tát lên địa-vị Ðẳng-giác và Diệu-giác.

b)      Nêu bày giáo-pháp rốt-ráo của Như-Lai, chỉ có Phật với Phật mới rõ mà thôi; ngoài ra hành Nhị-thừa ngồi nghe như đui như điếc, huống chi ngoại-đạo tà-giáo làm sao hiểu nổi!  Ðức Phật trình-bày giáo-pháp siêu-việt tuyệt-vời ấy, là muốn cho đại-chúng phải tu theo Ðại-thừa Phật-giáo mới được hoàn-toàn rốt-ráo. 

2.      Thời thứ hai Phật nói kinh A-hàm 

Biết rằng; “Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao phải từ nơi thấp”, đức Thích-Ca y theo chư Phật mà nói pháp Tam-thừa.  Vì vậy thời thứ hai, Ngài nói kinh A-hàm trọn 12 năm, dùng thí-dụ thật-tế, chỉ rõ chân-lý cho hàng Tiểu-thừa dễ thừa-nhận, mà lo bề tự tu và tự độ. 

3.      Thời thứ ba Phật nói kinh Phương-đẳng 

Ðức Phật chẳng những dạy pháp giác-ngộ phần mình mà Ngài còn chỉ bày phương-pháp giác-tha nữa, tức là khuyến-khích từ cái giác-ngộ tiêu-cực nhỏ hẹp của Tiểu-thừa (A-la-hán) để tiến lên cái giác-ngộ tích-cực bao-la của Ðại-thừa Phật-giáo.  Ấy là thời nói kinh Phương-đẳng trọn tám năm, dẫn Tiểu-thừa qua Ðại-thừa. 

4.      Thời thứ tư Phật nói kinh Bát-nhã 

Ðến khi đức Phật xem căn-cơ của chúng-sanh có thể tiến lên một từng cao nữa là hấp-thụ được hoàn-toàn giáo-pháp Ðại-thừa, nên Ngài chỉ bày đạo-lý chân-không của vũ-trụ, thuyết-minh cái thật-tướng vô-tướng của các pháp.  Ấy là thời nói kinh Bát-nhã trọn hai mươi hai năm. 

5.      Thời thứ năm Phật nói kinh Pháp-hoa và Niết-bàn 

Sự hóa-độ một đời của Phật gần viên-mãn, thêm thấy căn-cơ chúng-sanh đã thuần-thục, có thể gánh vác Ðại-thừa chánh-pháp của Như-Lai, nên Ngài bèn nói rõ bản-hoài của Ngài thị-hiện ra đời là vì một nguyên-nhân lớn: “Khai-thị chúng-sanh ngộ-nhập Phật tri-kiến”.  Ngài phú-chúc, thọ-ký cho hàng đệ-tử, tương-lai sẽ thành Phật.  Ấy là thời nói kinh Pháp-hoa và Niết-bàn trọn tám năm.  Ðến đây nhiệm-vụ thuyết-pháp độ sanh của đời Ngài đã viên-mãn. 

Tóm lại năm thòi thuyết-pháp, Cổ-nhơn có làm bài kệ như sau: 

            Hoa-nghiêm tối sơ tam thất nhựt

A-hàm thập nhị Phương-đẳng bát

Nhị thập nhị niên Bát-nhã đàm

Pháp-hoa Niết-bàn cọng bát niên 

Dịch nghĩa 

Trước nói Hoa-Nghiêm hăm mốt ngày

A-hàm mười hai, Phương-đẳng tám

Hai mươi hai năm nói Bát-nhã

Pháp-hoa Niết-bàn cọng tám năm. 

III.  SỰ HÓA-ÐỘ VIÊN-MÃN 

            Từ khi thành đạo dưới gốc cây Bồ-đề cho đến ngày nhập-diệt, trải qua một thời gian 49 năm, đức Phật đã đi khắp xứ Ấn-độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác.  Hễ chỗ nào có chân Ngài giẫm đến là ánh Ðạo vàng bừng-tỏa huy-hoàng. 

            Mỗi ngày, Ngài theo một thời-dụng-biểu một chương-trình nhất-định, không bao-giờ xao-lãng, giải-đãi, từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng.  Mỗi ngày, khi chưa tảng sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi tắm rửa, thay-đổi y-phục rồi vào phòng quán-cơ cho đến lúc mặc trời xuất-hiện.  Sau đó Ngài thuyết-pháp cho chúng Tăng đến lúc trưa mới nghỉ để thụ trai.

            Buổi chiều, Ngài thuyết-pháp cho tín-đồ ở các vùng lân-cận nghe; rồi lại giảng giải những nghi-vấn của các chúng Tăng về những vấn-đề mà Ngài đã thuyết-pháp ban sáng. 

            Mỗi năm, Ngài đi chu-du để thuyết-pháp độ sanh trong chín tháng nắng ráo, còn ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo thời tiết Ấn-độ), thì Ngài lại ở luôn trong các tịnh-xá để an-cư kiết-hạ. 

            Ròng-rã 49 năm như thế, hạt giống từ-bi được Ngài tinh-tấn gieo khắp các xứ ở Ấn-độ.  Từ Bắc chí Nam, từ Ðông sang Tây, từ rừng núi đến đồng bằng, không nơi nào là Ngài không đặt chân đến, hay truyền đệ-tử đến thay Ngài để hóa-độ chúng-sinh.  Và ở đâu Ngài và các đệ-tử cũng được nhân-dân, từ vua đến dân, từ giàu đến nghèo, từ già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra đón tiếp Ngài, vui thú được tắm gội trong ánh sáng Trí-huệ và nước Từ-bi do Ngài tưới xuống.  Ở đâu có ánh Ðạo vàng đến, thì tà-giáo và ngoại-đạo lui xa dần, tan biến trước ánh bình-minh đang lên.  Giọng thuyết-pháp của Ngài có oai lực như tiếng sư-tử rống, làm cho cầm-thú phải khiếp-phục, như tiếng hải-triều lên, lấn-át tất cả bao nhiêu tiếng tỉ-tê của côn-trùng, chim chóc. 

            Ðạo Bồ-đề từ đấy đã ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Ấn-độ bao la, và trở thành một tôn-giáo chính của các nước lớn, nhỏ thời bấy giờ tại Ấn-độ.  Ðức Phật sau khi tự-giác, đã giác-tha và đến đây giác-hạnh của Ngài đã viên-mãn. 

IV.  TRƯỚC KHI NHẬP NIẾT-BÀN 

1. Phật tuyên bố sắp lìa cõi đời 

            Khi giác-hạnh của Ngài đã viên-mãn thì Phật đã 80 tuổi.  Ðến đây, sắc thân tứ-đại của Ngài cũng theo luật vô-thường mà biến đổi yếu già.  Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng Sa-la trong xứ Câu-ly, cách thành Ba-la-nại chừng 120 dặm. 

            Một hôm, Ngài gọi ông A-nan, người đệ-tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:           

-          “A-nan, Ðạo ta nay đã viên-mãn.  Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ 4 hạng đệ-tử; Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.  Nhiều đệ-tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và Ðạo ta cũng đã truyền-bá khắp nơi.  Bây giờ ta có thể rời các người mà ra đi.  Thân hình ta theo luật vô-thường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã.  Ta đã mượn nó để chở Pháp, nay xe cũng vừa mòn mà Pháp cũng đã lan khắp các nơi, vậy ta còn nấn-ná làm gì trong cái thân tiều-tụy này nữa ?  A-nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn”.

Tin đức Phật sắp vào Niết-bàn, lan ra như một tiếng sét.  Các đệ-tử Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa lục-tục trở về để cùng đấng Giác-ngộ chia ly lần cuối. 

Trong thời-gian ba tháng cuối cùng của Ngài, đức Phật vẫn không nghỉ-ngơi, mà vẫn tiếp-tục đi truyền đạo. 

Một hôm, Ngài đi thuyết-pháp ngang qua một khu rừng gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần-đà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai.  Ngài im-lặng cùng các đệ-tử đi theo ông.  Ðến nhà, ông Thuần-đà dọn ra cúng-dường Ngài một bát cháo nấm, thường gọi là nấm heo rừng vì thứ nấm này rất được giống heo rừng ưa thích. 

Thụ trai xong, Phật cùng các đệ-tử lại từ giã ông Thuần-đà ra đi, Ðược một khoảng đường, Ngài giao bình-bát cho ông A-nan và truyền treo võng lên trong rừng cây Ta-la (1) để Ngài nằm nghỉ.  Ngài nằm xuống võng giữa hai cây ta-la, đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phía tay trái, mặt xây về phía mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau. 

Nghe tin Ngài sắp nhập Niết-bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già ngoài tám mươi tuổi tên Tu-bạt-đà-la đến xin xuất-gia thọ giới Sa-di với Ngài.  Ngài hoan-hỷ nhận lời.  Ðó là người đệ-tử chót trong đời Ngài. 

2.  Phật nói kinh Di-giáo và những lời phú-chúc 

Lúc bây giờ các đệ-tử Ngài đều có mặt đông-đủ chỉ trừ ông Ca-diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp.  Ngài hội tất cả đệ-tử và tín-đồ đến quanh Ngài và dặn-dò một lần cuối.  Ngài phú-chúc như sau: 

a)      Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma-ha Ca-diếp.

b)      Các đệ-tử phải lấy giới luật làm thầy.

c)      Ở đầu các kinh, nên nêu bốn chữ : “Như thị ngã văn”.

d)     Xá-lợi của Ngài sẽ chia ra làm 3 phần: một phần cho thiên-cung, một phần cho long-cung, một phần chia cho tám vị Quốc-vương ở Ấn-độ. 

Sau đây là vài lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ cuối cùng. 

-          “Này, các ngươi phải tự thắp đuốc lên mà đi !  Các ngươi hãy lấy pháp của ta làm đuốc !  Hãy theo pháp của ta mà tự giải-thoát !  Ðừng tìm sự giải-thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải-thoát ở một nơi nào khác ngoài các ngươi !...”

-          “Này !  Các ngươi đừng nghe dục-vọng mà quên lời ta dặn.  Mọi vật ở đời không có gì quý giá.  Thân-thể rồi sẽ tan-rã.  Chỉ có đạo ta là quý-báu.  Chỉ có Chân-ly của đạo ta là bất di, bất dịch.  Hãy tinh-tấn lên để giải-thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta !” 

Sau khi dặn-dò cặn-kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết-bàn.  Lúc bấy giờ nhằm ngày rằm tháng hai âm-lịch (theo giáo sử Trung-hoa). 

Rừng cây Ta-la muôn hoa xuống phủ lên thân Ngài; trời đất u-ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót.  Vạn-vật như chìm lặn trong những phút nặng-nề của sự chia ly. 

Các đệ-tử tẩm-liệm xác Ngài vào kim quan và bảy ngày sau, đưa kim-quan Ngài vào thành Câu-thi để tại chùa Thiện-quang và làm lễ trà-tỳ (lễ hỏa thiêu). 

Tám vị Quốc-vương lớn ở Ấn-độ kéo binh hùng tướng dũng đến toan tranh-giành xá-lợi.  Nhưng ông Hương-Tích y theo di-chúc của Phật, đứng ra điều-đình, và nhờ thế sự phân chia xá-lợi đều được ổn thỏa. 

            C - Kết Luận 

Ðức Phật đã nhập Niết-bàn, nhưng gương sáng của đời Ngài vẫn còn chiếu sáng rực trước mắt chúng ta.  Suốt một đời, trong 80 năm trời, không một lúc nào Ngài xao lãng mục-đích tối-thượng là hóa-độ chúng-sanh đang trầm-luân trong bể khổ.  Khi còn tại-gia, Ngài là người ở trong một địa-vị có diễm phúc nhất, cao cả nhất của người đời, thế mà Ngài vẫn không màng tưởng đến; khi vào trong đạo, Ngài là người ở trong địa-vị cao chót-vót của Ðạo, thế mà Ngài vẫn không chịu ở yên trong địa-vị ấy, lại vất-vả duỗi-rong trên mọi nẻo đường bụi-bặm, gai-góc để đưa dắt chúng-sanh lên con đường hạnh-phúc an-vui và giải-thoát hoàn-toàn.  Lòng thương của Phật thật là vô-lượng, ân-đức của Phật thật vô-biên. 

1.  Người đời nên noi gương sáng của Phật 

Sự hy-sinh cao-cả, lòng từ-bi rộng lớn, trí-huệ sáng-suốt, ý-chí dũng-mãnh của Ngài không những là bao nhiêu gương sáng cho riêng hàng Phật-tử, mà còn cho tất cả mọi người.  Nếu chúng ta quan-niệm Ngài là một vĩ-nhân, thì đó là một vĩ-nhân trên hết các vĩ-nhân của nhân loại từ xưa đến nay.  Nếu chúng ta quan-niệm Ngài là một bậc siêu-nhân, thì đó là một bậc siêu-nhân cao hơn bao nhiêu bậc siêu-nhân khác.  Nếu chúng ta quan-niệm đời Ngài là một sự thị hiện của Phật, thì đó là sự thị-hiện đẹp-đẽ nhất và đầy-đủ ý-nghĩa hơn hết trong các sự thị-hiện. 

Cho nên không những đối với tín-đồ Phật-giáo, mà đối với toàn-thể mọi người đức Phật đáng được kính-cẩn tôn-sùng và chiêm-ngưỡng.

2.  Tín-đồ nên ghi nhớ những lời di-chúc của Phật 

Chúng ta, là những Phật-tử, ai cũng biết đời đức Phật là đẹp-đẽ cao-cả; bài học của đời Ngài là quý-báu, sâu-xa.  Nhưng nếu chúng ta không cố-gắng học-tập thì bài học hay-ho quý-báu bao nhiêu cũng vô-ích.  Ðức Phật trước khi nhập-diệt, đã dặn chúng ta một câu cuối-cùng: 

- “Mọi vật ở đời không có gì quý giá.  Thân-thể rồi sẽ tan rã.  Chỉ có Ðạo là quý báu.  Chỉ có chân-ly của Ðạo ta là bất di bất dịch. 

Hãy tinh-tấn lên để giải-thoát !” 

Vậy thì điều-kiện trọng-yếu nhất để giải-thoát là sự tinh-tấn.  Chúng ta đừng bao giờ quên điều kiện ấy trong sự tu-hành. 

____

(1). Ta-la Tàu dịch Song-thọ : cây có hai cành lớn chỉa ra như cái nạn

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ I )
QUY Y TAM BẢO
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712