BÀI THỨ CHÍN
IX.
CHƯƠNG TỊNH CHƯ NGHIỆP CHƯỚNG
1. NGÀI TỊNH CHƯ NGHIỆP CHƯỚNG BỒ
TÁT HỎI PHẬT
Khi ấy ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát (1) ở trong đại chúng đứng
dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng rồi lạy Phật và quỳ thẳng chắp tay, bạch rằng:
- Bạch đức Đại bi
Thế Tôn, ngài đã vì chúng con rộng nói “nhơn địa tu hành” (2) của các đức Như Lai,
toàn những việc cao siêu mầu nhiệm, không thể suy nghĩ và luận bàn được, khiến cho
đại chúng đặng lợi ích chưa từng có.
- Chúng con là hàng
Bồ tát rất vui mừng vì tất cả cảnh giới tu hành cần khổ của đức Điều Ngự (3) trải
qua vô số kiếp, nhiều như cát sông Hằng, mà chúng con chỉ thấy như trong một niệm.
- Bạch đức Thế Tôn,
nếu cái tâm Viên Giác nầy tánh nó vốn thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô và
vì sai khiến cho chúng sanh mê muội, chẳng nhập được tánh Viên Giác ?
- Cúi xin đức Như
Lai, rộng vì chúng con, khai ngộ Pháp tánh (4), làm cho đại chúng hiện tại và chúng
sanh đời sau đều được con mắt trí huệ.
Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, cúi
đầu kính lạy rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy, Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát hỏi Phật: “…tánh
Viên Giác đã thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô? Và vì sao làm cho chúng
sanh mê muội không nhập được tánh Viên Giác…” Đoạn nầy giống như trong kinh
Lăng Ngihêm, Ông Phú lâu Na hỏi Phật: “Tất cả chúng sanh vì sao có vọng, tự che
lấy Chơn tâm mà phải chịu trầm luân?…”
(1) Câu “Tịnh Chư Nghiệp Chướng
Bồ tát.” Cổ đức dạy: “Phật cao nhứt xích, ma thắng nhứt trượng”.
Nghĩa là Phật cao một thước thì ma hơn 10 thước. Khi chưa tu, vì thuận theo
phiền não nghiệp chướng, nên chẳng thấy phiền não nghiệp chướng làm chướng ngại.
Đến khi hạ thủ công phu, đi ngược dòng phiền não, lúc bấy giờ mới thấy phiền não
nghiệp chướng các bịnh hiện ra vô số. Các phiền não nghiệp chướng nầy do bốn
tướng Ngã, Nhơn, Chúng sanh, và Thọ giả mà sanh ra. Vì thế nên chương nầy
ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát đứng lên thưa hỏi cầu Phật chỉ dạy phương pháp
dẹp trừ các ngihệp chướng về tâm bịnh. Đến chương dưới Phật nói rõ về tà sự
bịnh.
(2) Nhơn địa tu hành tức là ba
pháp môn Phật dạy ở chương trên (Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề, Thiền-na.) Nhơn
nghe thấy Phật dạy pháp môn tu, cũng như thấy tất cả công dụng tu hành của các đức
Phật trải qua bao nhiêu kiếp lao khổ, như trong một niệm, cho nên nói là “việc không
thể nghĩ bàn.”
(3) Điều ngự: Điều phục ngự trị
các phiền não ma quân. Đây là một hiệu trong 10 hiệu của Phật (Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh biến tri, v.v…)
(4) Pháp tánh: Tánh của các pháp.
Các pháp tuy ngàn sai muôn khác, nhưng đồng một bản tánh nên gọi là “Pháp tánh,”
tức là biệt danh của Viên Giác.
2. PHẬT KHEN NGÀI TỊNH CHƯ NGHIỆP
CHƯỚNG BỒ TÁT
Khi ấy đức Thế Tôn bảo ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát mà dạy rằng:
- Nầy Thiện nam! Hay
lắm và quí lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa
hỏi Như Lai phương tiện như vậy. Các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông
chỉ giáo.
Khi ấy, Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát cùng đại chúng đều hoan
hỷ và yên lặng vâng nghe lời Phật chỉ dạy.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật khen ngài Tịnh
Chư Ngihệp Chướng Bồ tát vì đại chúng hiện tại và chúng sanh đời sau thưa hỏi những
lời rất hữu ích.
3. PHẬT TRẢ LỜI: DO CHÚNG SANH VỌNG
CHẤP BỐN TƯỚNG
- Nầy Thiên nam!
Tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, do vọng tưởng điên đảo, chấp bốn tướng: Ngã,
Nhơn, Chúng sanh, và Thọ mạng, cho là thật thể của ta; rồi sanh ra hai cảnh: Thương
và ghét. Thế là ở nơi thân thể nầy đã hư vọng, lại chấp thêm cái hư vọng nữa.
- Bởi hai lớp vọng
nương nhau, sanh ra các vọng nghiệp. Vì có vọng nghiêp nên vọng thấy có sanh
tử luân hồi. Những người nhàm chán sanh tử luân hồi thì lại vọng thấy có Niết
bàn.
- Bởi thế nên không
thể nhập được Viên Giác thanh tịnh; chớ không phải tánh Viên Giác nầy chống cản
không cho chúng sanh nhập. Và những người nhập được cũng không phải tại tánh
Viên Giác chấp thuận cho nhập vậy. Thế nên kẻ khởi niệm hay người dứt niệm
cũng đều là mê muội. Tại sao thế? Bởi vì vô minh đã khởi sẵn (bổn khởi
vô minh) và làm chủ tể từ vô thỉ vậy.
LƯỢC GIẢI
Đoạn thứ nhứt, Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát hỏi Phật:
“…Cái tâm Viên Giác nầy vốn đã thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô? Và
vì sao khiến cho chúng sanh mê muội chẳng nhập được Viên Giác?...”
Đến đoạn nầy Phật trả lời, đại
ý nói: Bởi tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ do vọng tưởng điên đảo, chấp
bốn tướng (Ngã, Nhơn, Chúng sanh, Thọ mạng) làm thật thể của Ta, là lớp hư vọng
thứ nhứt. Rồi khi gặp cảnh thuận với ta thời thương, cảnh nghịch với ta lại
ghét, là lớp hư vọng thứ hai. Vì thế mà nhiễm ô. Đây là Phật trả lời
về câu hỏi thứ nhứt: nhơn cái gì mà nhiễm ô?
Nhơn cố chấp thật có Ta, cho
nên mới sanh ra thương ghét, vì thương ghét nên trở lại chấp thật có Ta. Bởi
hai lớp vọng nầy nương nhau nên sanh ra các vọng nghiệp. Vì thế mà chúng phàm
phu vọng thấy có sanh tử luân hồi trong 6 đạo. Hàng tiểu thừa nhàm chán sanh
tử luân hồi thì lại vọng thấy có Niết bàn; rồi trầm không thú tịch tham luyến nơi
cảnh Niết bàn. Bởi thế nên không nhập được tánh Viên Giác thanh tịnh, chớ
chẳng phải tánh Viên Giác không cho họ nhập vậy. Đây là Phật trả lời câu hỏi
thứ hai: Vì sao khiến cho chúng sanh mê muội, chẳng nhập được Viên Giác?
Phật lại dạy tiếp: Những
người nhập được cũng không phải do tánh Viên Giác chấp thuận cho họ nhập.
Bởi thế nên chúng phàm phu khởi niệm, hay hàng Nhị thừa dứt niệm, đều là vô minh
mê muội cả, chớ không dính líu gì đến tánh Viên Giác vậy.
4. ĐEM VÔ MINH (NGÃ - TƯỚNG, V.V…) CẦU ĐẠO, KHÔNG THỂ
THÀNH ĐẠO ĐƯỢC
- Nầy Thiện nam!
Tất cả chúng sanh, sống không có con mắt trí huệ, nên không tự thấy cả thân tâm
nầy (ngã tướng) đều là vô minh. Vì ngã tướng (thân tâm) do vô minh sanh, nên
chúng sanh không đủ can đảm tự tiêu diệt ngã tướng, cũng như người không thể tự
sát lấy mình được.
- Bởi chấp thân tâm
nầy là Ta, nên cảnh nào thuận với Ta thì sanh ra thương yêu; còn cảnh nào nghịch
với Ta thì lại sanh ra oán ghét. Do tâm thương ghét nầy, trở lại tiếp tục
nuôi dưỡng vô minh. Vì thế nên chúng sanh cầu Đạo, đều không thành được Đạo.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy Phật dạy rằng:
Tất cả thân tâm của chúng sanh đầu do vô minh sanh; song vì chúng sanh (ngã tướng)
đã từ vô minh sanh, nên không đủ can đảm tiêu diệt vô minh (ngã tướng) của mình.
Cũng như người không thể tự sát mình được.
Vô minh đã sanh ra Ngã tướng,
rồi từ Ngã tướng sanh ra thương ghét, trở lại nuôi dưỡng vô minh. Cũng như
sóng từ nơi nước sanh, rồi trở lại làm tăng thế lực cho nước. Bởi vô minh
huân tập và tư dưỡng lẫn nhau, tiếp nối không ngừng nên không rời, thì quyết định
chẳng thành Đạo.
Giống như kinh Lăng Nghiêm, Phật
dạy: “…Nếu dùng gốc rễ của vọng tâm làm tu nhơn, thì không thể thành được Đạo.”
Đem tâm đời mà làm Đạo thì Đạo cũng trở thành đời!
Trong kinh Viên Giác lược sớ
nói: “Dùng tâm mê muội (vô minh) mà cầu đạo, dầu siêng năng khổ hạnh cho vô minh
mà thôi, chớ không thành được quả vị Phật.
Phải biết: Gốc vô minh
sanh ra thương ghét, rồi do thương ghét trở lại huân tập thành vô minh. Từ
chủng tử sanh hiệp hành, rồi hiện hành huân làm chủng tử nối nhau không dứt.
Chúng sanh đem cái vô minh nầy mà cầu Đạo thì trọn đời không thể thành tựu.”
Kinh Bảo Tích kim nói:
Đối với thân nầy, sanh yêu quí thế là không rời tướng Ngã, Nhơn; dùng cái tướng
Ngã, Nhơn nầy mà tu hành thì trở lại đọa ác thú.
5. PHẬT NÓI BỐN TƯỚNG
A. NGÃ TƯỚNG
- Nầy Thiện nam!
Thế nào là “Ngã tướng?” - Tất cả chúng sanh tự tâm chứng nhận biết có Ta (ngã tướng)
vậy. Thí như có người thân thể điều hòa không có chút gì trái ý, tợ hồ như
quên mình (lúc ấy không thấy ngã tướng hiện). Đến khi điều dưỡng bị thất thường,
thân thể mất thăng bằng, hoặc gặp phải những cảnh trái nghịch, như gai đâm hay lửa
đốt v.v… lúc bấy giờ mới thấy cái Ta (ngã tướng) hiện ra rấy rõ rệt. Vì thế
mà chứng biết có cái Ta.
- Nầy Thiện nam!
Sâu thêm một từng nữa, cái ngã tướng có phần vi tế hơn trước, là người tu hành,
trong lúc thấy mình có chứng quả, có đắc đạo. Cho đến khi chứng quả Như Lai,
hay đặng Niết Bàn thanh tịnh của Phật, mà nếu còn cái tâm biết mình có chứng và
có đặng, như thế cũng đều còn “Ngã Tướng”.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật chỉ rõ cái Ngã
Tướng (Ta) có thô và tế.
1. Trong lúc bình thường thì cái Ta
hiện ra không rõ rệt, đến khi gặp nghịch cảnh, bị, người đánh đập hoặc hủy nhục
v.v… lúc bấy giờ cái Ngã tướng hiện ra mới rõ ràng. Đây là cái Ngã Tướng thô.
2. Người tu hành, một mình ở trong núi
sâu rừng thẳm, không gặp các cảnh thuận nghịch, tâm không phân biệt mình với người,
lúc bấy giờ tưởng mình đã chứng được “vô ngã” rồi. Đến khi gặp cảnh buồn vui
thử thách, tâm mừng giận nổi lên, lúc bấy giờ Ngã Tướng hiện y nguyên ra.
Cho đến lúc tự thấy mình đắc đạo hay chứng Niết Bàn tích mịch của Như Lai cũng đều
còn Ngã Tướng, song có phần vi tế hơn trước. Bởi vì còn biết có Niết Bàn hay
quả Phật sở chứng (được chứng) tất nhiên phải có cái Ta “năng chứng”. Nếu
năng chứng và sở chứng chưa hết (bỉ, thử chưa trừ) tức là còn Ngã Tướng.
B. NHƠN TƯỚNG
- Nầy Thiện nam!
Thế nào là Nhơn tướng? - Tất cả chúng sanh, tự tâm hiểu ngộ Ta đây là người
vậy (nhơn tướng), nghĩa là hiểu ngộ ta là người và các người cũng là người (nhơn
tướng). Nói rộng ra, hiểu ngộ ngoài Ta (ngã) thì tất cả đều là người vậy.
- Nầy Thiện nam!
Đi sâu vào một từng nữa, cái “nhơn tưóng” cò phần vi tế hơn, là cái tâm nầy, cho
đến hiểu ngộ Niết Bàn, cũng đều còn một chút ngộ rằng: “Chứng lý đầy đủ”,
thì đầu gọi là “Nhơn tướng”.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật chỉ rõ cái “Nhơn
tưóng” có thô và tế.
1. Chúng sanh tự công nhận mình là người
(Nhơn) và các người cũng là người (Nhơn). Nói rộng ra, ngoài mình (Ta) thì
tất cả kẻ khác đều là người (Nhơn). Đây là cái nhơn tướng thô thiển.
2. Đi sâu vào một từng nữa, cái Nhơn
tướng có phần vi tế hơn, là cái “tâm hiểu biết” nầy, cho đến nếu còn hiểu biết:
“Mình có viên ngộ Niết bàn” cũng còn Ngã tướng. Nghĩa là: hễ còn có một chút
hiểu biết, thế là còn “Nhơn tướng”. Cái Nhơn tướng nầy rất là vi tế.
Tóm lại, nếu còn có một chút hiểu ngộ rằng: “Mình viên ngộ Niết
bàn”, thế là có cái “hiểu ngộ” và có cái “mình viên ngộ” khác nhau. Vậy thời
ngoài mình (mình viên ngộ) còn có cái “hiểu ngộ”, tức là ngoài Ngã (mình viên ngộ)
có Nhơn tướng (cái hiểu ngộ) vậy.
Nói lại cho dễ hiễu: còn có Ta viên ngộ Niết bàn tức là “Ngã tướng”.
Cái “biết ta viên ngộ” đó là Nhơn tướng.
C. CHÚNG SANH TƯỚNG
- Nầy Thiện nam!
Thế nào là chúng sanh tướng? - Tất cả chúng sanh ở nơi tự tâm không còn chấp
mình là Ngã và Nhơn mà lại chấp là chúng sanh. Tỷ như có người nói như thế
nầy: “Tôi đây là chúng sanh”. Bởi thế nên biết: Người kia nói
“Tôi là chúng sanh” thì biết không phải Ngã và Nhơn.
- Nầy Thiện nam!
Những chúng sanh, rõ biết hai món tướng trước (sở chúng, sở ngộ) là thuộc về Ngã
và Nhơn, nay không còn chấp Ngã, Nhơn nữa; nhưng còn cái “tâm rõ biết”, đó là chúng
sanh tướng.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật nói chúng sanh tướng có hai phần thô và tế.
1. Không còn chấp ta đây là Ngã hay
Nhơn mà lại chấp là chúng sanh. Như thế là chấp về phần thô.
2. Rõ biết hai tướng Ngã và Nhơn là
phi, nên không còn chấp; thế là đã cao hơn trước một từng, nhưng còn cái “rõ biết
hai tướng Ngã, Nhơn là phi”. Đó cũng là cái vi tế Ngã tướng còn ẩn phục bên
trong, gọi là chúng sanh tướng.
D. THỌ MẠNG TƯỚNG
- Nầy Thiện nam!
Thế nào là Thọ mạng tướng? - Các chúng sanh tâm chiếu soi (phân biệt) đã thanh
tịnh. Nhưng còn cái trí giác ngộ tướng chúng sanh trước (giác sở liễu giả).
Bởi còn cái “trí giác ngộ” tương tục tu tập các nghiệp vô lậu, chưa có thể tự trừ
được; cũng như mạng căn tương tục, không tự đoạn được, nên gọi là “Thọ mạng tướng”.
- Nầy Thiện nam!
Nếu còn tâm soi thấy (biết) tất cả cái giác (biết) trước (3 tướng trên) đó, thì
cũng còn ở trong vòng trần cấu (tâm chưa trong sạch). Bởi còn năng giác và
sở giác nên chưa rời trần cấu vậy.
- Cũng như nước nóng
làm tiêu băng, thì toàn băng là nước, lúc bấy giờ không còn nước nóng tăng tiêu
và băng bị tiêu nữa. Nếu còn chút nước nóng và băng, thế là nước chưa thuần
nhất. Cũng thế, nếu còn cái Ta để giác ngộ cái Ta trước thì chưa rời đưọc
bốn tướng.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy nói: Người tu
hành khi phá trừ được Ngã, Nhơn, Chúng sanh ba tướng trên rồi, tâm đã được thanh
tịnh, nhưng còn cái trí tiếp tục tu vô lậu nghiệp, để phá trừ tướng trên.
Vì cái trí nầy còn tiếp tục trong một thời gian chưa có thể tự trừ được. Cũng
như mạng sống của con người, sống tiếp tục trong một thời gian, không thể tự đoạn
được, nên gọi là “Thọ mạng tướng”.
Phật dạy thêm, đại ý: Nếu
còn tâm phân biệt để phá trừ các tướng (Ngã, Nhơn, Chúng sanh, Thọ mạng) thế là
còn vọng. Vì còn Năng, Sở, Bỉ, Thử đối đãi nhau, nên tâm chưa trong sạch.
Bởi còn vọng là còn nhiễm ô, vì thế nên gọi là trần cấu. Nghĩa là: Nếu
còn một chút biết rằng: “Ta trừ Ngã”, thế là còn mắc trong bốn tướng, chưa
thoát ly được vọng. Cũng như nước nóng làm tiêu băng, khi “băng” tiêu rồi
thì “nóng” cũng không, chỉ còn nước.
Ngài Tôn Mật giải: Nước
là dụ cho “Chơn tâm”. Băng là dụ cho “bốn tướng”. Nước nóng là dụ cho
“trí huệ”. Nước vì lạnh mà đóng thành “băng”; cũng như Tâm vì mê nên thành
“bốn tướng”. Dùng nước nóng làm tiêu băng, cũng như dùng trí huệ làm tiêu
bốn tướng. Khi băng tiêu rồi thì nóng (nước nóng) cũng không, chỉ còn một
tách nước mà thôi. Cũng như Ngã tướng hết, thì trí phá Ngã cũng không, chỉ
còn một thể tánh chơn tâm.
Tóm lại, tướng “thọ mạng” cũng
là tướng Ngã rất vi tế đó thôi. Chúng sanh trước phân biệt chấp Ta, tức là
Ngã tướng. Khi phá được Ngã tướng, nhưng còn cái “trí biết mình phá Ngã” là
Nhơn tướng. Khi phá được Nhơn tướng, nhưng còn cái “trí biết mình đã phá Nhơn
tướng” gọi là chúng sanh tướng. Khi phá được chúng sanh tướng, nhưng còn cái
“trí biết mình đã phá chúng sanh tướng”. Cái trí đó vẫn tiếp tục tu các nghiệp
vô lậu, chưa có thể tự đoạn được, cũng như mạng căn tương tục sống trong một thời
gian và không thể tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng tướng”.
Vậy thì bốn tướng trên, cũng
là một ngã tướng, chẳng qua từ thô và tế, từ thiển đến thâm mà thôi. Theo
trong văn kinh chữ Hán, dùng bốn chữ riêng biệt, chỉ rõ bốn tướng có thô và tế khác
nhau:
1. “Chứng” là ngã tướng.
2. “Ngộ” là nhơn tướng.
3. “Liễu” là chúng sanh tướng.
4. “Giác” là thọ mạng tướng.
6. VÌ KHÔNG RỜI ĐƯỢC BỐN TƯỚNG, NÊN TU CHẲNG THÀNH PHẬT
- Nầy Thiện nam!
Các chúng sanh đời sau, bởi không rời được bốn tướng, nên tuy trải qua nhiều kiếp,
siêng năng tu hành khổ hạnh, nhưng chỉ thành hữu vi mà thôi, chớ không thể chứng
đươc thánh quả.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh Lăng Nghiêm Phật đã
cặn kẽ răn dặn: “Nếu các ông nhận lầm căn bản của sanh tử là vọng tâm làm
nhơn địa tu hành, thì không bao giờ thành quả vị Phật. Cũng như người nấu
cát làm cơm, dầu trải qua bao nhiêu kiếp cũng chẳng thành cơn được, vì gốc nó là
cát”.
Giống với đoạn kinh nầy, Phật
dạy đại ý: Người mang tâm nhơn, ngã v.v…. thuộc về hữu vi hữu lậu của chúng
sanh, mà muốn cầu quả vô vi vô lậu của Phật, dầu cho cực khổ tu hành trải qua nhiều
kiếp, cũng không thể được, vì gốc nó là Ngã tướng, là chúng sanh và hữu lậu vậy.
- Tại sao thế?
Bởi nhân các Ngã tướng: có chứng có ngộ, cho là thành tựu quả Niết bàn. Chẳng
khác nào người nhận giặc làm con, nó sẽ phá tan gia tài quí báu vậy.
LƯỢC GIẢI
Ngài Như Sơn giải rằng:
Tại sao siêng năng tu hành trải lâu nhiều kiếp, mà không chứng được Thánh quả?
- Bởi vì lầm nhận Ngã tướng làm Niết bàn vậy. Cũng như người lầm nhận giặc
làm con, đã không được nhờ, trái lại còn bị nó phá hoại chẳng ít.
Trên văn kinh, chữ “Các Ngã tướng”
tức chỉ cho bốn tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ mạng. Trên văn kinh, chữ
“Có chứng ngộ”: nghĩa là biết mình có chứng quả Phật, có ngộ Đạo, thế là chưa rời
Ngã tướng. Bởi hành giả đem “Ngã tưóng” nầy cho là đặng Thánh quả, nên nói
“nhận giặc làm con vậy”.
7. THƯƠNG (THAM) GHÉT (SÂN) LÀ GỐC CỦA SANH TỬ LUÂN HỒI
- Nầy Thiện nam!
Nếu hành giả còn ưa (thương) Niết bàn (pháp ái) tức là còn Ngã tướng (ta ưa); chẳng
qua cái Ngã tướng ấy bị ẩn phục, rồi lầm cho đó là tướng Niết bàn.
- Còn ghét sanh tử,
tức là còn Ngã tướng (ta ghét). Chúng sanh riêng ghét sanh tử, ưa Niết bàn,
chớ đâu biết rằng: Cái “ưa” đó chính là gốc sanh tử, còn “ghét” là gốc triền
phược (không giải thoát).
- Nầy Thiện nam!
Làm sao biết “ưa” và “ghét” là gốc sanh của sanh tử triền phược? Bởi các chúng
sanh tu đạo Bồ Đề, nếu còn đôi chút biết mình chứng được Đạo quả thanh tịnh, thế
là chưa diệt trừ được tận gốc Ngã tướng, nên còn sanh tử triền phược.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy nói: Còn
“thương ghét” là còn ngã tướng; mà Ngã tướng là gốc rễ của sanh tử luân hồi.
Chúng sanh đem tâm “thương ghét”
nầy mà cầu đạo Bồ đề thì không bao giờ được giải thoát, vì nó là gốc của sanh tử
luân hồi vậy.
Mặc dù ghét sanh tử là việc phải,
ưa cảnh Niết bàn tịch tịnh là một điều hay; nhưng cũng còn ở trong vòng thương ghét,
nên chẳng rời Ngã tướng.
Phải không “thương ghét”, thì
Ngã tướng mới không; Ngã tướng không, mới nhập được Viên giác. Vì hiểu nghĩa
nầy, nên cổ nhơn có làm bài kệ rằng:
Hán văn
Thập phương đồng tụ hội,
Cá cá học vô vi,
Thử thị tuyển Phật trường,
Tâm không cập đệ qui.
Dịch nghĩa
Mười phương đồng tụ hội,
Người người học vô vi,
Đây là trường thi Phật,
“Tâm không” mới được đậu.
Bài kệ nầy, quan trọng nhứt là
hai chữ “Tâm không”. Người còn “ưa ghét” tức là còn tham sân; tham sân còn
thì sanh tử luân hồi còn. Bởi thế nên trường thi làm Phật nầy, nếu ai Tâm
không còn tham sân tật đố, Tâm không còn nhơn ngã bỉ thử, Tâm không còn mừng giận
thương ghét v.v…thì được “đậu”.
8. PHẬT CHỈ “NGÃ TƯỚNG” ẨN NÚP TRONG TẠNG
THỨC
- Nầy Thiện nam!
Trong khi có người đến khen ngợi kính phục, hành giả lại sanh vui mừng, muốn tế
độ người đó. Trái lại, nếu bị người chê bai hủy báng, thì hành giả lại sân
hận. Do đó mà biết cái Ngã tướng vẫn còn kiên cố núp ẩn trong tạng thức; nó
thường lai vãng trong các căn của hành giả, không gián đoạn vậy. Người tu
hành bởi không đoạn trừ được “Ngã tướng” cho nên không thể nhập được Viên giác thanh
tịnh.
LƯỢC GIẢI
Người đời khi gặp cảnh thuận
hay nghịch, cái Ngã tướng thô trọng nổi lên rất dễ biết. Đến như người tu
hành cổi lột được Ngã tướng thô trọng bên ngoài, nhưng còn cái Ngã tướng vi tế tiềm
tàng trong tạng thức. Nó thường xuất đầu lộ diện, lai vãng ở nơi các căn mắt,
tai mũi, lưỡi.
Bằng chứng: Trong lúc được
người khen kính thì ta sanh tâm hoan hỷ, muốn độ người ấy. Trái lại, khi bị
ngưòi hủy báng chê bai, thì ta lại không vui. Đó là cái Ngã tướng hiển lộ,
có phần tế nhị hơn trước. Bởi không trừ được Tướng ngã, nên không nhập được
Viên Giác.
Than ôi! Núi không cao, Trời
không cao.
Ngã tướng mới cao!
Sông chẳng sâu, Biển chẳng sâu,
Ngã tướng mới sâu!
9. KHÔNG THẤY NGƯỜI HỦY NHỤC, KHÔNG
THẤY MÌNH THUYẾT PHÁP ĐỘ SANH, LÚC BẤY GIỜ NGÃ TƯỚNG MỚI KHÔNG CÒN
- Nầy Thiện nam!
Nếu hành giả muốn biết mình được vô ngã chưa, cứ xem trong lúc bị người hủy nhục,
mà không thấy có người hủy nhục , như thế là được vô ngã.
- Trái lại, trong
lúc thuyết pháp độ người, mà còn thấy có Ta thuyết pháp, thế là Ngã sanh tướng và
thọ mạng tướng cũng thế.
LƯỢC GIẢI
Được người khen không mừng, bị
người chê chẳng buồn, cũng chưa chắc đã hết ngã tướng. Trong khi được khen
bị chê, mà không thấy có người khen chê, như thế mới là vô ngã. Trái lại,
nếu thấy có người khen chê, cố nhiên phải có Ta được khen, bị chê, nên Ngã tướng
hãy còn rõ ràng.
Một thí dụ thứ hai: Trong
lúc thuyết pháp độ người, không thấy có Ta thuyết pháp, có người nghe pháp, không
thấy có Ta tế độ, có người được độ; như thế mới được vô ngã. Trái lại, nếu
còn thấy có Ta thuyết pháp, có Ta tế độ, thế là Ngã tướng chưa đoạn.
Trong kinh Kim Cang, Phật nói:
“Bồ tát độ vô số chúng sanh mà
không thấy chúng sanh có độ, nếu còn thấy có Ta độ sanh, tức không phải Bồ tát”;
vì còn Ngã tướng, nên không phải Bồ tát vậy.
Kinh Kim Cang lại nói:
“Bồ tát thuyết pháp không thấy
có mình thuyết pháp, nếu còn thấy có Ta thuyết pháp, tức không phải Bồ tát”; vì
còn Ngã tướng, nên không phải Bồ tát vậy.
10. VÌ CÒN “NGÃ TƯỚNG” NÊN KHÔNG NHẬP ĐƯỢC VIÊN GIÁC
- Nầy Thiện nam!
Ngã tướng là cái trọng bịnh của hành giả. Song chúng sanh đời sau lại nhận
lầm cái trọng bịnh nầy, cho là mình chứng được pháp Niết Bàn, thật đáng thương xót!
Bởi thế nên chúng càng tinh tấn tu hành chừng nào thì lại càng thêm cái bệnh Ngã
tướng chừng nấy; vì thế nên không nhập được Viên Giác thanh tịnh.
- Nầy Thiện nam!
Chúng sanh đời sau, chấp theo sự kiến giải và hạnh của Như Lai, làm chỗ hiểu biết
và hạnh của mình, song vì không biết bốn tướng còn ẩn núp bên trong, nên chẳng thành
tựu được Thánh quả.
- Hoặc có chúng sanh
chưa đặng Đạo, mà nói mình đã đặng Đạo; chưa chứng quả, mà nói mình đã chứng quả;
thấy người tinh tấn tu hành lại sanh tật đố. Bởi chúng sanh nầy chưa đoạn
trừ được ngã ái nên không nhập được Viên giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Đại ý nầy nói vì có ba nguyên
nhân, nên Hành giả không nhập được Viên giác thanh tịnh.
1. Bởi hành giả không biết bốn tướng rất tế nhị, lầm
cho mình chứng được đạo quả, nên càng tu chừng nào lại càng tăng trưởng bịnh Ngã
tướng chừng nấy. Vì vậy mà chẳng nhập được Viên giác.
2. Hành giả chỉ bắt chước theo chỗ kiến giả và hạnh
của Như Lai làm của mình, không biết bốn tướng vẫn còn tiềm tàng trong tạng thức
của hành giả, nên không nhập được Viên giác. Thí như hành giả trong kinh Phật
dạy bố thí v.v… rồi thật hành theo. Nhưng không biết trong khi ấy, lại bị
bốn tướng thường theo dõi. Nhưng trong khi bố thí, thấy có người thọ thí (Nhơn
tướng) và ta bố thí (Ngã tướng). Bố thí đã cầu cho Ta được giàu sang, Ta được
mạnh giỏi v.v… vì cái Ngã tướng còn nguyên hiện như thế, nên không nhập được Viên
giác.
3. Cũng vì Ngã tướng chưa đoạn, nên hành giả trong
lúc tu hành thấy kết quả được đôi phần, lúc bấy giờ tánh kiêu căng nổi lên, chưa
phải chứng ngộ hay đắc đạo, mà tự cho mình đã chứng ngộ hoặc đắc đạo. Hay
thấy người hơn mình, lại sanh ra tật đố v.v… Vì thế mà không nhập được Viên
Giác.
11. PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP NHẬP VIÊN GIÁC
- Nầy Thiện nam!
Chúng sanh đời sau, trông mong thành đạo, mà không cầu cho ngộ đạo; chỉ ưa học nhiều
nói suông, để tăng trưởng ngã tướng.
- Hành giả phải phát
tâm đại dõng mãnh, hàng phục các phiền não. Những pháp lành chưa chứng được
phải tinh tấn tu cho chứng; các pháp ác chưa đoạn, phải tinh tấn đoạn cho được;
khi xúc cảm không sanh tham, sân, si, mạn, ái và tật đố v.v… nào nhơn, ngã, bỉ,
thử, ân ái v.v… đều vắng lặng. Như Lai ứng chứng cho người nầy, lần lượt sẽ
thành tựu được Viên giác.
- Trên đường tu hành,
hành giả phải cầu Thiện hữu Tri thức chỉ dẫn, mới khỏi bị đọa tà kiến. Song,
nếu hành giả đối với Thiện tri thức, lại phân biệt sang hèn, sanh tâm thương ghét,
thì cũng không thể nhập được biển Viên giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy, Phật chỉ đường
lối tu hành để nhập Viên giác, có 3 đoạn:
Đoạn thứ nhất, đại ý Phật dạy:
Muốn được đạo thì phải tu hành mới ngộ được đạo. Nếu chỉ học nhiều nói suông
mà không tu, thì chỉ tăng trưởng Ngã tướng.
Đoạn nầy giống trong kinh Lăng
Nghiêm, Ngài A Nan tự trách: “…Bạch Thế Tôn, vì con ỷ lại con là em của Phật, có
lẽ Phật thương yêu sẽ ban cho con đạo quả, không cần phải tu hành cực khổ, chỉ lo
học nhiều nói suông nên không lợi ích gì cho mình…”
Đoạn thứ hai, đại ý Phật dạy:
Phương pháp tu hành để nhập Viên giác, là phải phát tâm đại dõng mãnh, đoạn trừ
các phiền não tức là bốn tướng nói trên. Siêng năng đoạn các ác pháp, tu chứng
các thiện pháp. Tất cả thời, tâm đều vắng lặng, khi đối cảnh không sanh các
phiền não như tham, sân, si v.v… Phật ấn chứng cho người ấy sẽ đặng nhập Viên
giác.
Đoạn nầy giống như trong kinh
Lăng Nghiêm, Phật dạy bốn chữ “Bất tùy phân biệt” nghĩa là: khi đối cảnh không khởi
phân biệt, thì vọng niệm chẳng sanh, vọng niệm không sanh, chơn tâm hiển lộ.
Đoạn thứ ba, đại ý Phật dạy:
Trên đường tu hành, hành giả phải cầu minh sư chỉ giáo mới tránh khỏi đọa tà kiến.
Song khi đối với minh sư không được phân biệt giàu nghèo sang hèn v.v… (y pháp bất
y nhơn) sanh tâm kính trọng. Nếu trái lại thì không thể nhập được Viên Giác.
12. PHẬT NÓI BÀI KỆ TÓM LẠI CÁC NGHĨA TRÊN
Khi ấy đức Thế Tôn, muốn tóm
tắt lại nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Tịnh Nghiệp, ông nên biết:
Tất cả các chúng sanh,
Luân hồi từ vô thỉ
Đều do chấp ngã vậy.
Nếu không trừ bốn tướng
Chẳng chứng quả Bồ đề
Nếu tâm còn thương ghét,
Hoặc tật đố si mê,
Ấy là kẻ mê muội,
Không được nhập Viên giác.
Người muốn được giác ngộ,
Trước phải trừ tham, sân,
Tâm hết chấp ngã, pháp,
Mới được nhập Viên giác.
Thân này còn chẳng có,
Thương ghét do đâu sanh,
Hành giả phải cầu thầy,
Mới khỏi đọa tà kiến,
Cầu thầy mà phân biệt,
Thời không nhập Viên giác.
LƯỢC GIẢI
Đại ý bài kệ nầy: chúng sanh
bị sanh tử luân hồi từ hồi nào đến giờ, đều do chấp bốn tướng. Nếu bốn tướng
không trừ thì không thể chứng Bồ đề. Vì các phiền não như tham, sân, si v.v…
nó làm mê muội, nên chúng sanh chẳnh nhập được Viên giác. Hành giả muốn nhập
Viên giác, trước phải đoạn tham, sân v.v… Bao giờ không còn ngã chấp và pháp
chấp, mới chứng đặng Viên giác.
Song trên đường tu hành, Hành
giả phải cầu Minh sư chỉ giáo, mới khỏi lạc tà kiến. Khi cầu thỉnh Minh sư,
nều Hành giả còn phân biệt sang hèn, sanh tâm thương ghét, thời cũng không nhập
được Viên giác.