Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

07 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)

BÀI THỨ BẢY

PHẦN CHÁNH TÔN (tiếp theo)

38.    NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NÀY CÔNG-ÐỨC VÔ LƯỢNG 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai dùng trí-huệ Phật, thấy rõ-ràng và biết chắc-chắn: đời sau, nếu có người phát tâm thọ-trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu công-đức vô lượng vô biên. 

LƯỢC GIẢI      

       Ðây là lần thứ 6, Phật khuyến-khích về công-đức thọ trì kinh này. 

       Kinh này nghĩa lý cao-siêu khác thường, quá tầm hiểu biết của người, sợ người không hiểu và không tin thì sẽ mất lợi-ích lớn, nên Phật dạy: “Như-Lai dùng trí-huệ Phật, thấy biết rõ-ràng và chắc-chắn: sau này, nếu có người thọ-trì đọc tụng kinh này, sẽ được công-đức vô lượng”. 

       Người hiểu biết được nghĩa lý và thọ trì kinh này, người ấy sẽ ngộ được kinh Kim-Cang Bát-Nhã, tức là đã trồng hạt giống Bồ-đề, tất nhiên sẽ đặng quả Bồ-đề, nên Phật nói: “được công-đức vô lượng”. 

39.    CÔNG-ÐỨC KINH NÀY VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có người nào, một ngày ba lần: Sớm mai, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố-thí; Trưa, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố-thí; Chiều, cũng đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố-thí.  Bố-thí như vậy cho đến vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, phước đức của người này vô lượng vô biên. 

-          Nếu có người nghe kinh này, tin hiểu không nghi-ngờ, thì người này phước đức nhiều hơn người trước.  Chỉ tin mà thôi, còn được phước như vậy, huống chi là thọ-trì đọc tụng, hoặc phiên dịch hay giảng dạy cho người.  Tóm lại, công-đức của kinh này vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ 7, Phật tán thán công-đức của kinh này không thể nghĩ bàn.  Người đem một thân mình bố-thí đã khó, huống chi là nhiều thân.  Nhưng, giả-sử có người đem nhiều thân mình ra bố-thí, một ngày ba lần: sớm mai, trưa và chiều đều bố-thí vô lượng vô số thân mình, cho đến nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm và nhiều kiếp đều bố-thí như vậy, thì phước-đức người này biết là bao nhiêu. 

       Nhưng, nếu có người nghe kinh này, chỉ sanh lòng tin, không nghi ngờ, thì phước đức còn nhiều hơn người trước, huống chi thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy cho người khác. 

       Tại sao vậy?  - Vì người tin được kinh này là người đã ươn trồng hạt giống Kim-Cang Bát-Nhã; thọ-trì đọc tụng là huân-trưởng hạt giống Bát-Nhã; giảng dạy cho người là làm cho người huân sanh hạt giống Bát-Nhã.  Hạt giống Bát-Nhã đã sanh trưởng thì thế nào cũng được thành Phật.  Bởi thế nên người tin thọ hoặc giảng dạy kinh này, phước đức nhiều hơn người bố-thí thân mạng. 

       Tóm tắt đoạn này, Ngài Xuyên Thiền-sư có làm bài tụng rằng: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Sơ tâm hậu phát thí tâm đồng

               Công-đức vô biên toán mạc cùng

               Tranh tợ tín tâm tâm bất lập

               Nhứt quyền đả phá thái hư không. 

       Dịch nghĩa: 

               Sớm trưa bố-thí phát tâm đồng

               Công-đức vô biên tính chẳng cùng

               Ðâu bằng tính tâm không trụ chấp

               Một tay đánh phá cõi hư không. 

ÐẠI Ý BÀI TỤNG 

       Người phát tâm bố-thí sớm mai, trưa và chiều, công-đức đều được vô lượng vô biên; nhưng công-đức không bằng người tin hiểu kinh Bát-Nhã và tâm không còn trụ chấp một nơi nào. 

40.    PHẬT KHUYÊN NGƯỜI THỌ TRÌ ÐỌC TỤNG KINH NÀY SẼ ÐƯỢC ÐẠO QUẢ BỒ-ÐỀ 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai vì những người phát tâm Ðại-thừa và phát tâm Tối-thượng-thừa mà giảng dạy kinh này. 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai thấy rõ-ràng và biết chắc-chắn: Nếu có người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, thì người này sẽ đặng công-đức vô lượng vô biên không thể suy nghĩ và luận bàn.  Người này sẽ đặng đạo quả Bồ-đề của Như-Lai. 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Người ưa pháp Tiểu-thừa, chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, nên đối với kinh này, họ không thể tin hiểu hoặc đọc tụng, hay giảng dạy cho người 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ 8, Phật tán-thán công-đức người thọ trì kinh này sẽ đặng đạo quả Bồ-đề của Phật. 

       Phật vì những hàng Ðại-thừa Bồ-tát và những người phát tâm Tối-thượng-thừa cầu quả Phật, mà nói kinh này.  Bởi thế nên những người chịu nghe và tin theo kinh này, hoặc thọ trì đọc tụng hay giảng dạy cho người nghe, tất nhiên người ấy đã có căn tánh (hạt giống) Ðại-thừa hay Tối-thượng-thừa, nên đặng công-đức vô lượng vô biên và sẽ thành Phật. 

       Trái lại, những người căn tánh Tiểu-thừa, bị gò bó trong cái khung bốn tướng, tư tưởng không hợp với giáo-lý Ðại-thừa, nên không bao giờ họ lãnh hội được kinh Ðại-thừa và tu hành theo Ðại-thừa hoặc giảng dạy cho người. 

41.    CHỖ PHỤNG THỜ KINH NÀY, CŨNG ÐƯỢC NHƠN THIÊN VÀ THÁNH THẦN CÚNG DƯỜNG

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Chỗ nào phụng thờ kinh này, thì chỗ ấy như có chùa tháp của Phật; tất cả trời, người, thánh thần đều cung kính lễ bái, dâng hoa cúng dường hoặc đi nhiểu. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ 9, Phật tán-thán công-đức Kinh Kim-Cang Bát-Nhã Ba-la-mật. 

       Trong đoạn thứ 13, Phật dạy: “Tất cả Phật và Pháp đều từ kinh này sanh ra”.  Vì kinh này rất quí báu như vậy, nên trong đoạn 20 và đoạn này (41) đều nói, chỗ thờ kinh này, cũng được trời, người, thần thánh xem như chùa Phật hay tháp Phật, đều đến cung kính lễ bái cúng-dường, hoặc đi kinh hành (đi xung quanh chỗ thờ kinh). 

42.    NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NÀY MÀ BỊ NGƯỜI KHINH KHI LÀ DO TỘI CHƯỚNG ÐỜI TRƯỚC CỦA HỌ RẤT NẶNG-NỀ 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu người thọ trì đọc tụng kinh này, mà bị người khinh khi, thì người này do tội chướng đời trước rất nặng-nề còn thừa lại, đáng lẽ phải đọa vào ác đạo; nhưng nay chỉ bị người khinh khi, những tội chướng đời trước được tiêu diệt và họ sẽ mau đặng đạo quả Bồ-đề. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ 10, Phật tán-thán công-đức của kinh Kim-Cang Bát-Nhã. 

       Kinh này công-đức vô biên và rất quí báu như thế, nên người thọ trì kinh này lẽ ra phải được sự cung kính tôn trọng.  Nhưng trái lại, bị người khinh khi, thì biết người này do tội chướng đời trước nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải bị đọa và ác đạo.  Nhờ công-đức thọ trì kinh này, nên họ bị quả báo rất nhẹ, là chỉ bị người khinh khi.  Từ đây các tội chướng đời trước tiêu diệt và họ sẽ đặng thành quả Phật. 

       Tóm tắt đoạn này, Ngài Trương-Vô-Tận có làm bài tụng: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Tứ tự diêm hương khứ phục hoàn

               Thánh phàm chỉ tại sát-na gian

               Tiền nhơn tội nghiệp kim nhơn tiện

               Ðáo khước tiền nhơn tội nghiệp sơn. 

       Dịch nghĩa: 

               Bốn mùa lạnh nóng mãi trôi qua

               Phàm thánh không ngoài một sát-na

               Tội nghiệp tiền thân nay phải chịu

               Chịu rồi mới hết nghiệp oan-gia. 

ÐẠI Ý BÀI TỤNG 

       Bốn mùa nóng lạnh, ngày tháng trôi qua là sự tuần-hoàn của vũ-trụ.  Chứng thánh hay đọa phàm, chỉ ở trong sát-na mê hay ngộ.  Kiếp trước làm tội ác nên kiếp này phải trả, bị người khinh khi.  Trả xong nghiệp chướng oan-gia mới được tự-tại giải-thoát. 

43.    NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NÀY, CÔNG-ÐỨC NHIỀU HƠN PHẬT THÍCH-CA CÚNG-DƯỜNG VÔ SỐ CHƯ PHẬT 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Ta nhớ trong quá khứ, về vô lượng vô số kiếp, trước thời Phật Nhiên-Ðăng, ta cúng-dường và phụng thờ tám trăm bốn ngàn muôn ức vô số chư Phật.  Nhưng về sau này, nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, thì công-đức của người này so với công-đức của ta cúng-dường phụng thờ vô số chư Phật trước kia, công-đức của ta không bằng một phầnt răm, một phần ngàn, một phần vạn, một phần ức của người này; cho đến dùng toán số hay thí dụ cũng không thể tính toán hay thí dụ được công-đức của người thọ trì kinh này. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ 11, Phật tán-thán công-đức của Kinh Kim-Cang Bát-Nhã. 

       Cúng Phật thuộc về tu phước, dù nhiều bao nhiêu, cũng thuộc về phước hữu-vi.  Người thọ trì kinh này, sẽ tỏ ngộ được lý Bát-Nhã và sẽ mau đặng đạo quả Bồ-đề.  Sau khi thành đạo, họ sẽ trở lại hóa độ vô số chúng-sanh đều được giải-thoát, thì công-đức làm sao thí được hay tính toán cho hết.  Bởi thế nên Phật nói: “công-đức của người thọ trì kinh này nhiều hơn công-đức của Phật cúng-dường vô số chư Phật về quá-khứ. 

44.    KINH NÀY NGHĨA LÝ KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN, NÊN PHƯỚC BÁO CỦA NGƯỜI THỌ-TRÌ KINH CŨNG KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN 

Phật dạy: 

-          Nếu ta nói hết công-đức của người thọ-trì đọc tụng kinh này, sợ e người nghe, tâm sanh cuồng loạn, hoặc nghi ngờ không tin. 

-          Tóm lại, kinh này nghĩa lý vô biên, không thể suy nghĩ và luận bàn, nên phước báo của người thọ trì kinh này cũng không thể suy nghĩ và luận bàn. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ 12, Phật tóm lại, tán-thán nghĩa lý của kinh này vô biên, nên công-đức của người thọ trì kinh này cũng không thể nghĩ bàn.      

       Từ trước đến đây đã 12 lần, Phật so sánh, khuyến-khích và tán-dương công-đức của người thọ-trì kinh này.  Nếu nói hết lời, Phật e người nghe rối trí, hoặc nghi-ngờ không tin.  Nếu người hiểu được nghĩa lý cao thâm của kinh này, không thể nghĩ bàn, thì họ sẽ tin công-đức phước báo của người thọ-trì kinh nay, cũng không thể nghĩ bàn. 

45.    ÐÂY LÀ LẦN THỨ HAI, ÔNG TU-BỒ-ÐỀ HỎI LẠI PHẬT HAI CÂU QUAN-TRỌNG 

Khi ấy, ông Tu-Bồ-Ðề bạch Phật: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Nếu có người phát tâm Bồ-đề, thì làm sao hàng phục vọng-tâm và làm sao an-trụ chơn-tâm? 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có người phát tâm Bồ-đề, thì phải dụng tâm như vầy:  Ta hóa độ tất cả chúng-sanh, nhưng không thấy có mình độ và chúng-sanh được độ.  Tại sao vậy?  Nếu Bồ-tát còn thấy mình độ và chúng-sanh được độ, thì Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng-sanh và tướng thọ-giả, tức nhiên không phải là Bồ-tát. 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ-đề. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 1), ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật: “Làm sao hàng phục vọng tâm và làm sao an trụ chơn tâm?” 

       Ðại ý Phật dạy: Người phát tâm Bồ-đề ra làm các Phật sự, lợi-ích tất cả chúng-sanh, không nên chấp ngã, pháp hay bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả.  Nếu không chấp ngã pháp hay bốn tướng thì sóng phiền-não vọng-niệm không sanh.  Nếu sóng phiền-não vọng-niệm không sanh thì biển chơn-tâm tự yên tịnh.  Ðó là phương pháp “hàng phục vọng-tâm” mà cũng là “an trụ chơn tâm”. 

       Nếu Bồ-tát làm Phật sự, hóa độ chúng-sanh, mà còn thấy có mình hóa độ (ngã) và người được độ (nhơn) thì Bồ-tát chưa nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, vì còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn v.v… nên không phải là Bồ-tát. 

       Nói đến “Tâm Bồ-đề”, sợ có người trụ chấp tâm Bồ-đề, nên Phật liền phá chấp: “Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ-đề”. 

       Ngộ được lý vô trụ của kinh Kim-Cang Bát-Nhã, Ngài Trường-Sa có làm bài kệ như sau: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Bách xích can đầu bất động nhơn

               Tuy nhiên đắc nhập vị vi chơn

               Bách xích can đầu tu tấn bộ

               Thập phương thế-giới hiện toàn thân. 

       Dịch nghĩa: 

               Ðầu sào trăm thước đứng vững trân

               Tuy ngộ nhưng chưa đúng lý chơn

               Ðầu sào trăm thước thêm một bước

               Mười phương thế-giới hiện toàn thân. 

ÐẠI Ý BÀI KỆ 

       Hai câu đầu nói, người tu hành dầu cao siêu đến đâu, nhưng nếu còn chấp một tí nào, thì cũng chưa phải là thật tu thật chứng, cũng như người đứng trên đầu sào trăm thước, tuy cao, nhưng chưa thoát ly được đầu sào. 

       Hai câu sau là nói, hành-giả phải rời tất cả vọng chấp ngã, pháp mới nhập được pháp-giới-tánh (chơn-tâm hay Bát-Nhã); lúc bấy giờ thân mình, hiện khắp cả mười phương pháp-giới; cũng như chim đã bỏ đầu sào trăm thước, thung-dung tự tại bay đi trong cõi thái-hư. 

46.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI CÓ ÐẮC PHÁP VỚI PHẬT NHIÊN-ÐĂNG” 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Về quá-khứ, Như-Lai có đắc pháp Bồ-đề với Phật Nhiên-Ðăng không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Như-Lai không có đắc pháp Bồ-đề với Phật Nhiên-Ðăng. 

Phật dạy: 

-          Ðúng như vậy, Như-Lai không có đắc pháp gì cả.  Nếu Như-Lai có đắc pháp thì Phật Nhiên-Ðăng không thọ-ký cho ta rằng:  Về sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni. 

Phật dạy tiếp: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Có người nói: “Như-Lai đặng quả Bồ-đề”.  Thật ra, Như-Lai là bản-thể như như của các pháp, nên Như-Lai không đặng pháp gì cả. 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai đặng đạo Bồ-đề, không phải hư, không phải thật. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 15) Phật dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã, phá cái chấp “Phật có đắc pháp”.  Ðúng theo tinh-thần kinh Kim-Cang Bát-Nhã, thì phải phá trừ hết các mây vô-minh vọng-chấp nhơn, ngã v.v… lúc bấy giờ mặt trời Bát-Nhã chơn-không (chơn-như hay Phật tánh) mới hiện. 

       Bởi thế nên Phật tuy đắc pháp Bồ-đề, nhưng không thấy mình có đắc (vô ngã) và pháp Bồ-đề (vô pháp) đã đắc, nên mới được Phật Nhiên-Ðăng thọ-ký. 

       Nếu Như-Lai còn thấy mình có đắc pháp Bồ-đề, tức nhiên Như-Lai còn chấp ngã (mình đặng) và chấp pháp (pháp Bồ-đề), chưa nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, thì đâu được Cổ Phật Nhiên-Ðăng chứng nhận cho: “Về sau ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni”. 

       Chúng-sanh chấp “Như-Lai đặng quả Bồ-đề”, vì chúng-sanh chưa hiểu hai chữ “Như-Lai”.  Phật giải-thích: “Như-Lai là bản-thể như như của các pháp”; đã là như như, nên không có đặng pháp gì cả. 

       Phật dạy tiếp:  “Như-Lai đặng đạo Bồ-đề, không phải hư, không phải thật”.  Nếu đạo Bồ-đề mà còn có hư hay là thật, thì không phải Bồ-đề.  Ðến chỗ này thì dùng lời nói luận bàn không trúng, đem ý thức suy nghĩ phân biệt cũng chẳng nhằm.  Ðây là lần thứ ba, Phật phá cái chấp “Như-Lai đặng đạo Bồ-đề” (lần thứ nhứt và thứ 2 ở về đoạn 15 và 36). 

       Ngộ được lý “Phật tuy đã thành Phật nhưng không thấy mình được thành Phật”, nên ngài Phật-Quốc Thiền-sư có làm bài kệ như sau: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Tâm tâm tức Phật, Phật tâm tâm

               Phật Phật tâm tâm, tức Phật tâm

               Tâm Phật ngộ lai vô nhứt vật

               Tướng quân chỉ khát vọng mai lâm. 

       Dịch nghĩa: 

               Tâm tâm tức Phật, Phật tức tâm

               Phật Phật tức tâm, tâm tức Phật

               Tâm, Phật ngộ rồi không chi cả

               Nói me đỡ khát vạn quân binh. 

ÐẠI Ý BÀI KỆ 

       Người mê, chấp tâm và Phật riêng khác.  Kẻ hiểu lại nói: Phật tức tâm, tâm tức Phật.  Người tỏ-ngộ rồi không còn thấy có Phật và tâm.  Vì cảm hóa chúng-sanh nên mới đặt ra có danh-từ tâm và Phật để kêu gọi.  Cũng như vì muốn cho vạn quân đỡ khát nước, nên vị Chỉ-huy mới phương tiện nói “gần đến rừng me”. 

GIẢI DANH TỪ 

       Thọ-ký:  Truyền trao và ký nhận. 

47.    PHẬT NÓI: “TẤT CẢ CÁC PHÁP ÐỀU LÀ PHẬT PHÁP” 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói: “Tất cả các pháp đều là Phật pháp”.  Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói các pháp, thật ra không phải các pháp, chỉ giả gọi “các pháp”; cũng như thân Phật cao lớn, Như-Lai nói không phải thân Phật cao lớn, chỉ giả gọi “thân Phật cao lớn”. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật phá cái chấp “các pháp và thân Phật”.  Kinh chép: “Pháp thân Phật biến khắp tất cả; cảnh-giới của Phật ở gọi là Thường-tịch-quang”.  Bởi thế nên nói “tất cả các pháp đều là Phật pháp”. 

       Chúng ta bị mây vô-minh che khuất trăng Bát-Nhã, nên chỉ thấy các pháp ngã, nhơn v.v… chư Phật và Bồ-tát đã giác ngộ, phá tan mây vô-minh, trăng Bát-Nhã được sáng tỏ, nên chỉ thấy toàn là Phật pháp. 

       Vừa nói đến “các pháp”, sợ chúng-sanh chấp “các pháp” mà không ngộ được tánh Bát-Nhã chơn-không, nên Phật liền phá:  “Như-Lai nói: “các pháp” thật ra không phải “các pháp”, chỉ giả gọi là “các pháp”.  Cũng như thân Phật, thật ra không phải thân Phật, chỉ giả gọi là thân Phật”.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ XII)
08 - PHẦN CHÁNH TÔN (TIẾP THEO)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712