Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Bài Thứ 06: Chương Thanh Tịnh Huệ

BÀI THỨ SÁU

VI.- CHƯƠNG THANH TỊNH HUỆ

 1.- NGÀI THANH TỊNH HUỆ BỒ TÁT HỎI PHẬT 

Khi ấy Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân Phật và quỳ thẳng bạch rằng: 

-         Bạch đức Thế Tôn, ngài đã vì chúng con, khôn khéo rộng nói những việc không thể nghĩ bàn.  Những việc mà chúng con từ hồi đến giờ, chưa từng thấy và chưa từng nghe, hôm nay nhờ Phật khai thị khiến chúng cho chúng con được hiểu ngộ, thân tâm khoan khoái vui mừng, đặng lợi ích rất lớn. 

-         Bạch đức Thế Tôn, xin ngài vì các vị Bồ tát và tất cả chúng sanh trong pháp hội nầy, chỉ dạy thứ lớp tu chứng của Như Lai như thế nào để cho chúng sanh hiện tại và đời sau, nhơn nghe lời Phật dạy đây, mà được khai ngộ, lần lượt tùy thuận vào tánh Viên Giác của đức Pháp Vương (Phật). 

       Ngài Thanh Tịnh Huệ thưa thỉnh xong như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui. 

LƯỢC GIẢI

       Đại ý đoạn nầy, ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật: Trên đường lối tu hành, từ địa vị phàm phu đến quả vị Phật, phải trải qua bao nhiêu địa vị? thứ lớp tu chứng sai khác thế nào?  Cầu Phật chỉ dạy, khiến cho chúng sanh được hiểu ngộ, lần lượt nhập vào tánh Viên Giác. 

       Thanh Tịnh Huệ là trí huệ thanh tịnh, tức là Bát nhã huệ.  Từ chương nầy đến chương sau là chú trọng về việc hạ thủ công phu.  Trong khi tu hành bất luận giờ phút nào, cũng phải dùng Bát nhã trí để lãnh đạo; cho nên chương nầy Ngài Thanh Tịnh Huệ đứng lên thưa hỏi là tiêu biểu cho Bát nhã huệ vậy. 

2.- PHẬT KHEN NGÀI THANH TỊNH HUỆ BỒ TÁT 

       Khi đó đức Thế Tôn khen ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát và dạy rằng: 

-         Nầy Thiện nam, quí lắm! Ông vì các Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau thưa hỏi Như Lai về thứ lớp tu chứng sai khác như thế nào.  Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy. 

       Khi đó ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát và đại chúng đều hoan hỷ và kính cẩn vâng nghe lời Phật chỉ giáo. 

3.- PHẬT DẠY: TRONG VIÊN GIÁC KHÔNG CÓ BỒ TÁT VÀ CHÚNG SANH 

-         Nầy Thiện nam! Trong tánh Viên Giác thanh tịnh, không tất cả pháp, mà có đủ tất cả pháp.  Nó tùy thuận các duyên biến hiện ra đủ tất cả, mà không thủ và không chứng.  Thí như con mắt, thấy được tất cả vật, mà không tự thấy mình.  Nó vẫn bình đẳng mà không tự thấy mình bình đẳng.

-         Nầy Thiện nam! Trong thật tướng (Viên Giác) không có Bồ tát và chúng sanh.  Tại sao thế? - Bởi Bồ tát và chúng sanh đều là huyễn hóa vậy.  Khi các tướng huyễn hóa diệt rồi, thì không có người năng chứng và quả sở chứng.

 

-         Chúng sanh vì còn mê muội điên đảo nên chưa diệt trừ được các tướng huyễn hóa.  Vì chúng sanh vọng khởi công dụng, để đối trị các tướng huyễn hóa, bởi có những tướng huyễn hóa đã diệt và chưa diệt, nên chúng mới thấy có thứ lớp tu chứng sai khác.  Nếu người đặng túy thuận tánh Viên Giác tịch diệt của Như Lai rồi, thì không còn thấy có cảnh tịch diệt và người tịch diệt nữa. 

LƯỢC GIẢI 

       Đại ý đoạn nầy Phật nói: Trong tánh Viên Giác vốn không có tất cả pháp, mà tùy duyên hiện ra đủ tất cả các pháp sai khác.  Đoạn nầy giống với đoạn trong kinh Lăng Nghiêm, Phật thí dụ cây đờn: Trong cây đờn không có các bài bản hay và dở; song tùy duyên nó hiện ra đủ các tiếng hay và dở. 

       Trong tánh Viên Giác không có năng thủ sở thủ và năng chứng sở chứng, không Bồ tát và chúng sanh.  Vì chúng sanh chưa diệt trừ được các tướng huyễn hóa, nên vọng khởi công dụng để dẹp trừ các tướng vọng huyễn nầy.  Vì thế mà thấy có chứng và có đắc, bực lớp sai khác.  Nếu người tùy thuận được tánh Viên Giác tịch diệt của Như Lai rồi thì không còn thấy có một pháp nào cả. 

       Trong đoạn nầy có cái ví dụ: “Như con mắt không tự thấy con mắt”.  – Cái ví dụ nầy chỉ cho tánh bình đẳng và vô công dụng của Viên Giác.  Tánh Viên Giác tùy duyên hiện ra các pháp mà không thủ, không chứng.  Cũng như con mắt bình đẳng chiếu soi tất cả vật, mà không thấy mình có chiếu soi là bình đẳng. 

4.- PHÀM PHU TÙY THUẬN TÁNH VIÊN GIÁC (ĐỊA VỊ THẬP TÍN) 

-         Nầy Thiện nam! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, do lầm tưởng có “thật ta và vật của ta”, rồi sanh lòng thương yêu cái ta và vật của ta, cho nên gặp cảnh nghịch với ta thì giận ghét, còn thuận với ta thì tham ái, say mê theo cảnh ngũ dục.  Chúng chưa từng biết thân tâm nầy là hư vọng, mỗi niệm sanh diệt luôn luôn, không có thật ta.

 

-         Nếu gặp thiện hữu tri thức dạy bảo, chúng được khai ngộ tánh Viên Giác thanh tịnh, hiểu rõ thân tâm nầy là hư vọng, mỗi niệm sanh diệt không thật có cái ta; lúc bấy giờ chúng mới tự xác nhận rằng: thân tâm nầy là “trần lao vọng lự”.

 

-         Những người nào đoạn trừ được vĩnh viễn các trần lao vọng lự nầy, thì ngộ pháp giới thanh tịnh, nhưng đối với tánh Viên Giác chưa được tự tại, vì còn bị cái “biết thanh tịnh” nó làm chướng ngại, những người như thế thì gọi là kẻ phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác. 

LƯỢC GIẢI 

       Đoạn trên (số 3) là dựng về tánh Viên Giác thanh tịnh bình đẳng mà nói, nên không có Bồ tát và chúng sanh sai khác.  Nhưng đứng về phương diện sự tướng tu hành mà luận thì có lớp lang tu chứng rõ ràng.  Bởi thế nên từ đoạn nầy (số 4) về sau là nói thứ lớp nhập Viên Giác, bắt đầu từ vị Thập Tín, Tam Hiền, Thập Thánh và đến quả Phật. 

       Đại ý đoạn nầy nói hàng Thập Tín tùy thuận tánhViên Giác.  - Bởi tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ vì mê lâm chấp ta và cảnh vật của ta là chơn thật, cho nên sanh ra tham, sân v.v…  Nếu gặp Thiện Tri Thức dạy bảo, chúng giác ngộ được cái “ta” và “cảnh vật của ta” đều hư vọng, sanh diệt không thật, thì lúc bấy giờ chúng mới trừ được ngã chấp, đặng pháp giới Thanh tịnh.  Nhưng vì còn “biết thanh tịnh” thế là còn pháp chấp chưa trừ, nên còn chướng ngại tánh Viên Giác.  Vì thế nên gọi là “chúng Phàm phu (vị Thập Tín) tùy thuận tánh Viên Giác”. 

5.- BỒ TÁT Ở VỊ TAM HIỀN, TÙY THUẬN TÁNH VIÊN GIÁC 

-         Nầy Thiện nam! Tất cả các vị Bồ tát, vì còn chấp cái “biết thanh tịnh” (giải) nên chướng ngại tánh Viên Giác.  Nay tuy đoạn được cái chướng ngại đó (cái biết thanh tịnh) nhưng còn trụ ở cái “giác”, nên tánh Viên Giác vẫn còn bị chướng ngại, không được tự tại.  Bởi thế nên gọi là bực Tam Hiền Bồ Tát, tùy thuận tánhViên Giác. 

LƯỢC GIẢI 

       Các vị Bồ tát nầy, tuy rời được cái “biết thanh tịnh”, nhưng còn cái “biết giác”.  Vì còn cái “biết giác” làm chướng ngại nên tánh Viên Giác không được hiển hiện.  Đại ý đoạn nầy nói: Bực Tam hiền Bồ Tát tùy thuận tánh Viên Giác.  Tam Hiền là: Thập trụ, Thập hạnh, và Thập hồi hướng. 

 

6.- BỒ TÁT LÊN THÁNH VỊ, TÙY THUẬN TÁNH VIÊN GIÁC 

-         Nầy Thiện nam! Nếu còn “biết” (chiếu) và còn có “giác”, thì đều còn chướng ngại (vì còn năng và sở).

 

-         Thế nên Bồ tát thường “giác” mà không trụ nơi “giác”, năng chiếu và sở chiếu đồng vắng lặng.  Bồ tát tự dùng tâm chướng ngại diệt trừ các chướng ngại (dĩ vọng diệt vọng), khi các chướng ngại diệt hết, cũng không còn người năng diệt.  Thí như có người tự mình chặt lấy đầu mình, khi cái đầu đã rụng rồi thì cũng không có người chặt (năng đoạn).

-         Nầy Thiện nam! Tất cả kinh giáo của Như Lai là ngón tay để chỉ mặt trăng Viên Giác (chơn lý).  Vậy các ông phải biết: đây là ngón tay kinh giáo chớ không phải mặt trăng Viên Giác.  Nếu các ông chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy được mặt  trăng.  Những người biết nhơn ngón tay kinh giáo nầy, mà nhận được mặt trăng Viên Giác, thì gọi là Bồ tát lên Thánh địa, tùy thuận tánh Viên Giác. 

LƯỢC GIẢI

        Đoạn trên nói Bồ tát ở vị Tam Hiền còn “biết” và còn “giác”.  Đến đoạn nầy nói: Bồ tát đã lên Thánh địa, tuy thường “giác” mà không trụ trước nơi “giác” vì không còn năng và sở. 

       Cũng như người tự chặt cái đầu của mình, khi cái đầu rụng rồi thì không có người chặt và kẻ bị chặt.      

       Tất cả kinh giáo của Phật đều là phương tiện để chỉ chơn lý (Viên Giác).  Hành giả phải phương tiện để đến chơn lý; nếu cố chấp nơi phương tiện thì không bao giờ đến chơn lý. 

       Giáo pháp của Phật cũng như ngón tay chỉ mặt trăng.  Người muốn thấy mặt trăng thì phải nhơn ngón tay mà xem; khi thấy mặt trăng (chơn lý) rồi thì phải quên ngón tay (phương tiện).  Nếu cố chấp nơi ngón tay (phương tiện) thì người ấy không bao giờ thấy mặt trăng chơn lý. 

       Cái thí dụ nầy giống nhụ trong kinh Lăng Nghiêm, Phật thí dụ “ngón tay chỉ mặt trăng v.v…” 

 

7.- NHƯ LAI TÙY THUẬN TÁNH VIÊN GIÁC 

-         Nầy Thiện nam! Tất cả sự chướng ngại tức là Cứu kính giác, chánh niệm hay vọng niệm đều là Giải Thoát, trì giới hay phá giới đều là Niết Bàn; trí huệ hay ngu si cũng đều là Bát Nhã; Bồ tát và ngoại đạo đồng là Bồ đề; Vô minh và Chơn như đồng một cảnh giới; giới, định, huệ, và dâm, nộ (giận), si đều là hạnh thanh tịnh; chúng sanh và quốc độ đồng một pháp tánh; điạ ngục và Thiên đường đều là tịnh độ; hữu tình và vô tình đều là thành Phật đạo; tất cả phiền não là rốt ráo giải thoát, vì biển huệ pháp giới chiếu soi các tướng cũng như hư không.  Đây gọi là Như Lai tùy tuận tánh Viên Giác. 

LƯỢC GIẢI 

       Các đoạn trên đã nói: từ vị Thập Tín, thì bị các “biết tịnh” làm ngại; qua vị Tam Hiền, lại bị cái “biết giác” làm ngại; đến vị Thập thánh, tuy đã lìa hết các ngại, nhưng hãy còn cái “thường giác” chưa được Viên dung. 

       Đoạn nầy nói về quả vị Phật, đã hoàn toàn nhập Viên Giác tánh, thấy tất cả pháp đồng một bản thể, nên nói: “Các chướng ngại tức là cứu kính giác, chánh niệm và tà niệm đều là giải thoát, phiền não sanh tử tức là Bồ đề, Niết bàn, trí huệ, ngu si đều là Bát nhã, v.v…” 

       Bởi thế nên Cổ đức có dạy rằng: “Mê thời Chơn như thành vọng tưởng, ngộ thời vọng tưởng tức Chơn như”. 

8.- TÓM LẠI

-         Nầy Thiện nam! Các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thì giờ không khởi vọng niệm phận biệt, đối với các vọng tâm cũng chẳng cần diệt trừ, ở cảnh vọng tưởng, chẳng gia thêm phân biệt, ở nơi cảnh không rõ biết, chẳng cần phân biệt chơn thật, khi nghe đến pháp môn nầy, không lấy làm lạ lùng và kinh hãi, lại sanh tâm tin chắc, hiểu biết rõ ràng, lãnh thọ và phụng trì, thì ta gọi chúng sanh nầy là người tùy thuận tánh Viên Giác. 

-         Nầy Thiện nam! Các ông phải biết: Những chúng sanh tùy thuận như thế là đã nhiều đời tu hành, từng trồng rất nhiều công đức; cúng dường các đức Phật và các vị Bồ tát nhiều như số cát sông Hằng.  Ta ấn chứng cho những người nầy sẽ thành tựu “Nhứt thế chủng trí” (Phật trí). 

LƯỢC GIẢI 

       Đoạn nầy Phật dạy cốt yếu có một câu: “Chỉ trong tất cả thì giờ, không khởi vọng niệm, v.v… đó là tùy thuận tánh Viên Giác”.  Nghĩa là: nếu trong tất cả thời mà vọng niệm không sanh khởi, thì tham, sân, si, không sanh; 3 độc không sanh thì 3 nghiệp chẳng tạo, các nghiệp không tạo thì chẳng còn sanh tử luân hồi; sanh tử đã không thời chơn tâm tự hiện, như thế là tùy thuận tánh Viên Giác.  Tỷ như nước đục để trên bàn, nếu trong tất cả thì giờ đều được yên lặng, không bị chao động, thì tánh nước trong tự hiện. 

       Đoạn nầy giống như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy “Bất tùy phân biệt”.  (Không theo trần cảnh khởi vọng niệm phận biệt).  Thật là một pháp tu mau chóng (viên đốn), nếu không phải người nhiều kiếp tu hành, đã từng trồng căn lành từ nhiều đời Đức Phật, thì không thể lãnh thọ nỗi pháp môn nầy. 

       Tóm lại, Phật dạy: Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thời không khởi vọng niệm, cũng không cần để tâm diệt trừ vọng niệm v.v…, những chúng sanh thật hành được như thế là căn lành của chúng đã trồng sau từ nhiều đức Phật, và chúng đã nhập được tánh Viên Giác, sẽ thành quả Phật. 

       Ngài Thanh Tịnh Huệ hỏi thứ lớp tu chứng của Như Lai, đến đây Phật trả lời xong hết. 

9.- PHẬT NÓI BÀI KÊ TÓM LẠI CÁC NGHĨA TRÊN

Khi ấy đức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng: 

Thanh Tịnh Huệ! phải biết:

Viên mãn tánh Bồ đề,

Không còn thủ và chứng,

Không Bồ tát, chúng sanh.

Giác và khi chưa giác,

Thứ lớp có sai khác,

Chúng sanh bị “biết” ngại (Thập tín)

Bồ tát bị “giác” ngại (Tam Hiền)

Thánh địa hằng vắng lặng (Thập Thánh)

Vì không trụ các tướng,

Viên mãn quả Đại Giác,

Nên gọi “khắp tùy thuận” (Phật).

Các chúng sanh đời sau

Tâm chẳng sanh hư vọng

Ta nói chúng sanh nầy,

Hiện đời là Bồ tát,

Vì cúng dường chư Phât,

Công đức viên mãn.

Tuy có nhiều phương tiện,

Cũng đều tùy thuận Giác. 

LƯỢC GIẢI 

       Đại ý bài kệ nầy Phật dạy: Tánh Viên Giác không có thủ và chứng, không Bồ tát và chúng sanh.  Nhưng về thứ lớp tu hành thì có phân ra Tín vị, Hiền vị, Thánh vị, và Phật vị.  Nếu như chúng sanh nào tâm chẳng sanh vọng tưởng, là Bồ tát hiện tại, vì chúng sanh nầy đã trồng công đức từ hằng sa chư Phật. 

       Pháp môn tu tuy có nhiều và thứ lớp chứng đạo có sai khác, nhưng cũng đều về tánh Viên Giác. 

       Trong chương Thanh Tịnh Huệ nầy, ngài Thanh Tịnh Huệ hỏi Phật thứ lớp tu chứng như thế nào?  Phật trả lời có hai phần. 

1.      Đứng về lý tánh Viên Giác mà nói thì không có Bồ tát và chúng sanh, không thủ và không chứng. 

2.      Về sự tướng tu hành thì có thứ lớp sai khác.  Như về Tín vị thì bị cái “biết” (giả) làm ngại, ở về Hiền vị thì còn bị cái “giác” làm ngại, vào Thánh vị tuy được tịch diệt, nhưng chưa được Viên mãn. 

       Tóm lại, Phật dạy một câu: “Nếu người đối với tất cả thời, không khởi vọng niệm, thì được tùy thuận tánh Viên Giác”.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ VIII)
BÀI THỨ 07: CHƯƠNG OAI ÐỨC TỰ TẠI
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712