Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam

LỊCH-SỬ PHẬT-GIÁO VIỆT-NAM

(Từ lúc mới du-nhập đến hết đời Lý) 

A.      MỞ-ÐỀ:

Trong thời Pháp thuộc, vì vận mệnh chung cả nước nhà đang suy đồi, lại bị văn-hoá Tây-phương và ngoại đạo lấn áp, nên Phật-giáo đối với phần đông dân-tộc Việt-Nam như là một tôn-giáo hạ đẳng, phụ thuộc, không có nghĩa lý gì. 

Nhưng nếu có ai đi sâu vào lịch-sử Phật-giáo Việt-Nam, theo dõi bước đi của sự truyền-giáo qua các thời đại từ khi dân tộc Việt-Nam mới lập quốc đến nay, thì sẽ thấy Phật-giáo giữ một địa-vị quan-trọng vô cùng trong công trình gây dựng văn-hóa Việt-Nam.  Có thể nói một cách không quá rằng: Văn-hóa Việt-Nam một phần lớn là văn-hóa Phật-giáo.  Rút cái tánh chất Phật-giáo trong văn-hóa Việt-Nam ra, thì văn-hóa ấy thật là nghèo nàn, nông cạn.  Chính Thượng-toạ Mật-Thể, trong quyển “Việt-Nam Phật-giáo sử lược” đã nói rất đúng: “Nhờ tinh-thần sáng suốt của thể đạo, với công nghiệp bố giáo của các Tổ sư, Phật-giáo rất có công to trên lịch-sử văn-hóa nước nhà”. 

Ngày nay, để nhận chân đứng đắn cái vai trò quan trọng và sứ mệnh lịch-sử của Phật-giáo nước nhà, cũng như để thêm tin tưởng và phấn khởi mà tu học, để thừa tiếp cái tinh thần “Bi-Trí-Dũng” của đạo mà truyền lại cho các thế-hệ về sau, chúng ta, Phật-tử Việt-Nam cần phải biết rõ lịch-sử Phật-giáo Việt-Nam. 

B.       CHÁNH-ÐỀ: 

I.  PHẬT-GIÁO DU-NHẬP VIỆT-NAM 

1.  Con đường du nhập. 

Nước Việt-Nam ta nằm trên bán đảo Ấn-độ Chi-Na, giữa hai nước rộng lớn, hai dân tộc đông dân nhất thế-giớI, hai nền văn-minh sáng lạn của Á-Châu là Ấn-độ và Trung-Hoa.  Vì địa thế của nước Việt-Nam nằm ở giữ con đường biển đi từ Ấn-độ đến Trung-Hoa, nên đà chịu ảnh hưởng nhiều của hai nền văn-minh ấy. 

Riêng về Phật-giáo, thì sự du nhập vào Việt-Nam cũng do cả hai đường: đường biển từ phía Nam lên và đường bộ từ phía Bắc xuống.  Trong số bốn nhà truyền-giáo đầu tiên đặc chân lên đất Việt-Nam, thì hết ba nhà sư là ngườI Ấn-độ, đi đường thủy sang Trung-Hoa truyền-đạo và đã ghé lạiViệt-Nam là các ngài: Ma-ha-kỳ-Vực, Khương-tăng-Hộivà Chi-cương-Lương. 

Nhà Truyền-giáo thứ tư là ngườI Trung-Hoa, ngài Mâu-Bác, đã đi đường bộ từ phía Bắc xuống.  Ðó là điều chứng minh rằng Phật-giáo vào Việt-Nam do cả đường thủy và đường bộ, cả từ phía Nam lên, lẫn phía Bắc xuống.  Nhưng vì nước ta bị Trung-Hoa đô hộ ngót một ngàn năm, và sau đó cũng còn bị lệ thuộc về văn-hóa và chính-trị, nên về sau con đường truyền-giáo từ Trung-Hoa sang là con đường chính.

2.      Thời đại du nhập đầu tiên. 

Theo các sử gia đáng tin cậy, thì nhà truyền-giáo đầu tiên đến Việt-Nam (lúc bấy giờ là đất Giao-châu) là ngài Mâu-Bác, ngườiquận Thương-ngô, tức Ngô-Câu (Trung-Hoa bây giờ).  Sau khi vua Hán Linh-Ðế mất (189) nước Tàu thường loạn lạc, Ngài theo mẹ qua ở Giao-Châu và truyền-bá Ðạo Phật. 

Nhà truyền-giáo thứ hai đặt chân lên đất Giao-Châu là ngài Khương-tăng-Hội, ngài gốc Khương-cư (Soadiane, Ấn-độ).  Mục đích của Ngài là sang Trung-Hoa, nhưng ông thân của Ngài thường sang Giao-Châu buôn bán nên Ngài cũng theo con đường Giao-Châu để sang Trung-Hoa.  Trung-Hoa lúc ấy về đời Tam-quốc, Ngài đến nước Ðông-Ngô và được Ngô-tôn-Quyền sùng mộ, xin quy-y với Ngài (229-252).  Như thế là Ngài Khương-tăng-Hội ghé lại Giao-Châu vào khoảng đầu thế-kỷ thứ III sau Tây lịch. 

Vào khoảng giữa thế-kỷ thứ III đến cuốI thế-kỷ thứ III, đất Giao-Châu lại đón tiếp hai nhà sư Ấn-Ðộ nữa là ngài Ma-ha-kỳ-Vực và Chi-cương-Lương, trên bước đường sang Trung-Hoa truyền-giáo của các Ngài, vào đời nhà Tấn (265-306). 

Như thế, có thể nói rằng: Ðạo Phật du nhập đầu tiên vào Việt-Nam trong khoảng cuối thế-kỷ thứ II đến cuối thế-kỷ thứ III sau Tây lịch. 

3.      Các môn phái du nhập. 

Trong thời kỳ đầu tiên du nhập Việt-Nam, Ðạo Phật chỉ phớt qua trên đất nước, chưa có màu sắc riêng biệt và dân chúng cũng chỉ mới tiếp xúc vớI Ðạo Phật trong phương diện thờ cúng lễ bái mà thôi. 

Phải đợi đến vài ba trăm năm sau, Ðạo Phật mới thâm nhập dần vào dân chúng và do ảnh hưởng của Phật-giáo Trung-Hoa.  Có một điều chúng ta ngạc-nhiên là, mặc dù Phật-giáo Trung-Hoa gồm mười tôn phái, mà chỉ có Thiền-tôn là được truyền sang Việt-Nam trước nhất và mạnh nhất.  Tôn này được truyền vào Việt-Nam trước hết do Ngài Tỳ-ni-đa-lưu-Chi (Vini taruci) đưa sang (580).  Ngài là đệ-tử được truyền tâm-pháp của Tam-tổ Tằng-Xán, và chính là sơ tổ Thiền-Tôn Việt-Nam. 

Ðến đời Ðường (820) lại có ngài Vô-ngôn-Thông ở Trung-Hoa sang truyền-giáo, lập thành phái Thiền-Tôn thứ hai; kế đó là các phái Thảo-đường, Tào-động, Lâm-tế v.v… lần lượt được truyền sang Việt-Nam. 

Tóm lại, Ðạo Phật du nhập vào Việt-Nam, chỉ có Thiền-tôn là gây ảnh hưởng mạnh hơn cả.

II.  PHẬT-GIÁO DƯỚI ÐỜI HẬU LÝ-NAM-ÐẾ VÀ BẮC THUỘC LẦN THỨ BA (571-939) 

Từ khi Phật-giáo truyền vào Việt-Nam cho đến đời Tiền Lý Nam-Ðế, kể ra trên ba trăm năm (189-548) nhưng vẫn còn nằm trong thời kỳ phôi-thai chưa có gì đáng gọi là thạnh hành lắm.  Ðến đời Hậu Lý Nam-Ðế (571-602) và Bắc thuộc lần thứ III (603-939) Phật-giáo mới bắt đầu bước vào thời thạnh-đạt. 

1.  Giai đoạn thứ nhất.  - Sự truyền-bá Thiền-Tôn của Ngài Tỳ-ni-đa-lưu-Chi và ngài Pháp-Hiền. 

            Vào cuối đời Hậu Lý Nam-Ðế, có Ngài Tỳ-ni-đa-lưu-Chi ở Trung-Hoa sang (580) đem Thiền-Tôn truyền-bá vào, được người Việt-Nam hết sức sùng mộ.  Do đó, lần đầu tiên nước Việt-Nam được biết đến Thiền-Tôn và Ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi chính là sơ tổ phái Thiền-Tôn ở Việt-Nam.  Sau Ngài Tỳ-ni-đa-lưu-Chi nối nghiệp thây, đem Ðạo Phật truyền sâu vào trong dân chúng. 

2.      Giai đoạn thứ hai.  - Ảnh hưởng của ba đoàn truyền-giáo. 

Ðến đây, Phật-giáo Việt-Nam bắt đầu thịnh.  Lúc bấy giờ nước ta đang lệ thuộc nhà Tùy.  Vua Cao-tổ nhà Tùy, nghe nước ta đạo Phật đang phát triển mạnh, nên Vua ban cho các vị danh tăng ở nước ta năm hòm lễ vật, và sắc lịnh cho xây tháp ở chùa Pháp-Vân, chùa Trùng-Khánh cùng các danh địa khác. 

Sau nhà Tùy mất ngôi (618) nhà Ðưòng kế nghiệp, vua Ðường-cao-Tổ cũng có ban cho An-Nam năm viên ngọc Xá-Lỵ và sắc dựng chùa xây tháp. 

Cũng trong giai đoạn này, những nhà truyền giáo Trung-Hoa và Ấn-Ðộ, thường mượn đường nước ta để mà qua lại.  Trong khi đi ngang Việt-Nam các ngài thường ghé lại ít lâu để thuyết-pháp, do đó chúng ta cũng chịu được nhiều ảnh hưởng tốt.  Trong số những đoàn truyền giáo ấy, đáng kể nhất là ba đoàn sau đây: 

a)     Ðoàn thứ nhất:  Gồm có các Ngài Minh-Viễn pháp sư, Huệ-Mạnh thiền sư, và Vô-Hành thiền sư, đều là người Trung-Hoa. 

b)     Ðoàn thứ hai:  Gồm có các Ngài Ðàm-Nhuận pháp sư, Trí-Hoàng pháp sư và Tăng-Già Bạt-Ma (hai Ngài đầu người Trung-Hoa và Ngài sau cùng người Tây-Trúc). 

c)     Ðoàn thứ ba:  Gồm sáu Nhà sư Việt-Nam là các Ngài: Vân-Kỳ thiền sư, Mộc-Xoa Ðề-Bà, Khuy-Sung pháp sư, Huệ-Diệm pháp sư, Trí-Hành thiền sư và Ðại-thặng-Ðăng thiền sư.  Bốn Ngài đầu người Giao-Châu, hai Ngài sau ngườI Ái-Châu (Thanh-Hóa, Nghệ-An bây giờ).  Các Ngài này đều đến từ Việt-Nam đi sang cầu pháp ở Tây-Trúc và tịch, phần nhiều rất sóm, ở Ấn-Ðộ hay Tích-Lan. 

3.      Giai đoạn thứ ba.  - Sự truyền-bá của phái Vô-ngôn-Thông. 

Vào năm 820 nước ta lại được một vị cao tăng thuộc phái Thiền-tôn sang truyền giáo và lập thành một phái Thiền-tôn thứ hai là Ngài Vô-ngôn-Thông. 

Ngài họ Trịnh, quê ở Quảng-Châu.  Lúc nhỏ Ngài đã mộ đạo, xuất-gia tu học tại chùa Song-Lâm, đấ Vũ-Châu (Triết-giang).  Tính Ngài điềm đạm, ít nói, nhưng sự lý gì cũng hiểu, nên người thời ấy gọi Ngài là Vô-Ngôn-Thắng. 

Một hôm Ngài đang lễ Phật, gặp một vị thiền-sư đến điểm hóa cho Ngài và đưa Ngài đi tìm đức Mã-Tổ mà tham học.  Nhưng đến Giang-Tây, Ngài nghe tin đức Mã-Tổ đã tịch rồi, nên Ngài đi đến xin tòng sư với tổ Bạch-Tượng thiền sư. 

Một hôm trong buổI giảng, có vị học tăng hỏi tổ Bạch-Tượng: 

-  Thế nào là pháp môn của phái Ðại-Thừa? 

            Tổ trả lời: 

            -  Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nghĩa là nếu tâm địa thông thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng). 

            Nghe được mấy câu ấy, Ngài Vô-ngôn-Thắng liền ngộ đạo.  Ngài trở về Quảng-Châu, Trụ-trì tại chùa An-Hòa.  Ðến năm sau, Ngài qua Việt-Nam trú ở chùa Kiến-Sơ, làng Phù-Ðổng (Bắc-Ninh) trọn ngày ngồi xây mặt vào vách mà thiền-định.  Như thế đã mấy năm mà không ai biết; chỉ có vị sư ở chùa ấy là Cảm-Thành thiền sư biết Ngài là bực Cao-tăng đắc đạo trong phái Thiền-Tôn, nên hết lòng kính trọng và thờ làm thầy.  Ngài thị tịch một cách rất an nhiên tự-tại, vào năm 826 Tây lịch, sau khi truyền tâm-ấn cho Ngài Cẩm-Thành thiền sư. 

            Ngài Cẩm-Thành thiền sư lại truyền tâm-ấn cho Ngài Thiện-Hội và gây thành một truyền thống cho phái Vô-Ngôn-Thông (chúng ta sẽ học tiếp trong các đời vua sau). 

            Tóm lạI trong khoảng thời gian gần bốn trăm năm, từ đời Hậu Lý Nam-Ðế cho đến hết thời kỳ Bắc thuộc lần thứ Ba (571-939), sự truyền giáo qua Việt-Nam có thể chia làm ba gai đoạn: gia đoạn thứ nhất, do công đức của phái Tỳ-ni-đa-lưu-Chi; giai đoạn thứ hai do, các đoàn truyền giáo Trung-Hoa và Việt-Nam, và sự khuyến khích ủng hộ của các đờI vua Tùy và Ðường; giai đoạn thứ ba, do phái Vô-Ngôn-Thông.

III . PHẬT-GIÁO DƯỚI ÐỜI ÐINH VÀ TIỀN LÊ (968-1009) 

1.  Tình trạng tổng quát của Phật giáo trong hai đời Ðinh, Lê: 

            Trong hai đời vua này, Ðạo Phật được tiến phát rất nhiều.  Có thể nói Ðạo Phật trở thành độc tôn.  Tất cả văn-hóa, chính-trị trong nước, một phần lớn đều thuộc về hàng tăng-sĩ, cho nên Ðạo Phật được phổ biến dễ dàng trong quần chúng.  Mặc dù Nho-giáo và Lão-giáo đã truyền vào từ lâu, nhưng không làm sao có uy thế được như Phật-giáo.  Trong triều chính thì Ngài Ngô-Châu-Lưu làm đến chức Khuông-Việt thái-sư; trong giớI tăng-sĩ thì Ngài Trương-Ma-Ni làm Tăng-lục đạo sĩ và pháp sư Ðặng-Huyền-Quang làm Sùng-Chân uy nghi. 

            Sau khi nhà Ðinh mất ngôi, Lê-Ðại-Hành lên kế vị, chống lại quân nhà Tống (980) và được thắng lợi.  Trong giai đoạn này, các vị tăng-sĩ lại được biệt đãi hơn; vua Lê-Ðại-Hành thường triệu thỉnh các vị Tăng-thống vào triều để bàn hỏi việc nước và khuyến khích việc truyền-bá Phật-pháp. 

            Ðiều đáng chú ý trong giai đoạn này là, sau khi đã hòa với nhà Tống, vua Ðại-Hành sai sứ sang triều cống nhà Tống và xin thỉnh các bộ “Cữu-kinh” và “Ðại-Tạng-Kinh” đêm về truyền bá.  Ðây là lần đầu tiên nước ta công khai sang thỉnh kinh ở Trung-Hoa về. 

            Một điều đáng nghi nhớ nữa là trong giai đoạn này, trong giới tăng-sĩ có hai vị cao-tăng xuất chúng đã làm vẻ vang cho nước nhà một thời.  Ðó là Ngài Khuông-Việt thái-sư và Ngài Ðỗ-Thuận thiền-sư. 

2.  Khuông-Việt Thái-sư: 

            Ngài họ Ngô, pháp hiệu là Châu-Lưu, quê ở làng Cát-ly, trụ-trì chùa Phật-Ðà.  Thuở nhỏ Ngài theo Nho học, lớn lên thọ giới vớI Vân-Phong thiền sư ở chùa Khai-Quốc.  Từ đó, Ngài chuyên đọc kinh điển nhà Phật, hiểu được mọi lẽ cốt yếu của Thiền-tôn, tiếng tăm lừng lẫy trong nước.  Năm Ngài 40 tuổi, vua Ðinh-Tiên-Hoàng vời vào hỏi đạo, Ngài ứng đối tinh tường, vua rất mến phục và phong làm Tăng-Thống.  Năm sau, vua lại phong Ngài làm Khuông-Việt thái sư (Khuông-Việt là người có công giúp đỡ sửa sang nước Việt). 

            Ðến đờI vua Lê-ÐạI-Hành, Ngài càng được kính trọng hơn nữa.  Bao nhiêu việc quan, việc nước, vua thường triệu Ngài, đến hỏi.  Ngài ở triều ít lâu rồI lấy cớ già yếu xin cáo về, dựng một ngôi chùa ở núi Du-hý.  Ở đó, Ngài mở trường dạy học, học trò đến học rất đông.

            Ngày rằm tháng hai, niên hiệu Thuận-Thiên thứ hai đời nhà Lý, Ngài gọi Ða-Bảo thiền sư là đệ tử thân tín của Ngài đến truyền tâm pháp qua bài kệ sau đây, rồi chắp tay an nhiên thị tịch. 

            Nguyên vănMộc trung nguyên hữu hỏa,

                                    Nguyên hòa phục hoàn sinh

                                    Nhược vị một vô hỏa

                                    Toàn tạI hà do sinh ? 

            Dịch nghĩa:    Trong cây vốn có lửa

                                    Tia lửa mới sáng lòa

                                    Nếu bảo cây không có lửa,

                                    Cọ sát sao mà ra ? 

            Ngài thọ được 81 tuổi, và là người thứ tư được truyền tâm pháp của phái Vô-Ngôn-Thông.           

3.  Ðỗ-Thuận Thiền-sư: 

            Ngài dòng họ Ðỗ, không rõ nguyên quán ở đâu, xuất-gia từ thuở nhỏ, thọ giới vớI Long-Thọ Phù-trì thiền-sư.  Khi nhà Tiền Lê mới thành nghiệp, Ngài thường được vời vào triều để bàn luận chính trị và ngoại giao.  Vua Ðại-Hành thường gọi là Ðỗ Pháp-sư, chứ không dám gọi chính tên.  Ngài làm thư rất hay, và thường được cử ra để đối đáp với các sứ-giả Trung-Hoa. 

            Niên hiệu Hưng-Thống thứ hai nhà Tiền Lê, Ngài thị tịch, thọ được 76 tuổi.  Ngài có làm quyển “Bồ-Tát hiệu sám hối văn”, nay còn truyền lại.  Ngài là đời pháp truyền-thống thứ mười của phái Tỳ-ni-đa-lưu-Chi. 

4.  Nhận xét chung về Phật-giáo trong giai đoạn nầy: 

            Phật-giáo đời Ðinh và Tiền Lê sở dĩ được ưu đãi và giữ địa-vị độc tôn, vì những lý do sau đây:  Các vị tăng-sĩ phần nhiều là những vị bác học thâm Nho.  Chữ Nho mặc dù trước đó đã được đem dạy ở đất Việt, nhưng vì chưa có khoa thi cử, nên ít người theo học.  Chỉ có các vị thiền-sư, vì cần nghiên cứu Phật-giáo qua kinh điển bằng chữ Hán, nên phải học Nho nhiều.  Những vị sư lúc bấy giờ, vừa túc Nho, vừa hiểu đạo lý mà vừa có đức hạnh, thì lẽ dĩ nhiên là trong triều được vua trọng vọng, ngoài dân chúng được kính nể.  Ðạo Phật được thạnh hành trong giai đoạn này cũng không có gì đáng ngạc-nhiên. 

IV.   PHẬT-GIÁO DƯỚI ÐỜI NHÀ LÝ (1010-1226) 

1.  Dưới đời Lý-Thái-Tổ. 

a)     Vua Lý-Thái-Tổ và tình hình Phật-giáo dưới đời này (1010-1028). 

Vua Lý-Thái-Tổ tên húy là Lý-Công-Uẩn, con nuôi của sư Lý-Khánh-Vân ở chùa Cổ-Pháp, thọ giáo với ngài Vạn-Hạnh Thiền-sư.  Sau khi vua Lê-Ngọa-Triều mất, Ngài lên ngôi kế vị, lấy hiện Thuận-Thiên, đóng đô ở Thăng-Long (Hà-Nội).  Lý-Thái-Tổ là một Phật-tử thuần thành, nên sau khi lên ngôi, Ngài hết sứ chú trọng đến sự truyền-bá Phật-giáo.  Ngài đã dựng rất nhiều ngôi chùa và độ rất nhiều tăng chúng.  Ðáng chú ý hơn cả là năm 1019, Ngài sai sứ thần sang Trung-Hoa thỉnh kinh đem về để tạI kinh viện Ðại-Hưng. 

Triều đại này có thể nói là triều đại mà Phật-giáo được thịnh đạt nhất.  Các vị thiền-sư lúc bấy giờ như Ngài Vạn-Hạnh, Ða-Bảo, Sùng-Phạm thiền-sư đều là những bậc danh tăng mà nhà vua rất tín trọng.  Cho nên sự truyền giáo của các Ngài rất dễ dàng có hiệu quả.  Những vị danh tăng này đều ở hai phái Tỳ-ni-đa-lưu-Chi và Vô-Ngôn-Thông cả. 

b)     Vạn-Hạnh Thiền-sư. 

Ngài họ Nguyễn, không rõ tên húy là gì, người làng Cổ-pháp.  Gia-đình Ngài đời đời thờ Phật, Ngài thông minh xuất chúng từ thuở nhỏ, học hết tam giáo và tinh thông về giáo-lý nhà Phật.  Năm 20 tuổi, Ngài xuất-gia, theo học với Ngài Thiền-Ông đạo giả, tức là vị thứ hai được truyền tâm pháp của phái Tỳ-ni-đa-lưu-Chi.  Ngài chuyên tập páp “Tổng-trì tam-ma-địa”.  Người đời thường xem câu nói của Ngài như những câu sấm.  Trong thời vua Ðại-Hành còn sống, Ngài thường được vời vào triều hỏi việc quan. 

Năm Thuận-Thiên thứ IX (1018) Ngài không đau ốm gì mà tịch.  Thi hài Ngài được triều đình và các đệ tử của Ngài hỏa táng và thờ ở trong tháp.  Trước khi thị tịch, Ngài có làm bài kệ sau đây: 

Nguyên văn:  Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

                        Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

                        Nhận vận thịnh suy vô bố úy,

                        Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Dịch nghĩa:    Thân như bóng chớp chiều tà,

                        Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời,

                        Sá chi suy thịnh việc đời,

                        Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành. 

2.  Dưới đời Lý-Thái-Tôn (1028-1054). 

a)     Tình-hình Phật-giáo dưới đời vua này. 

Lý-Thái-Tôn nối ngôi Lý-Thái-Tổ, lấy niên hiệu Thiên-Thành.  Ngài cũng là một người rất sùng mộ Ðạo Phật.  Sau khi đánh dẹp giặc Chiêm ở đất Hoan-Châu (Nghệ-An) về, Thái-Tôn sắc lập 95 ngôi chùa cử lễ khánh thành, hạ chiếu miễn thuế cho dân trong nước một năm.  Ðến năm 1034 Thái-Tôn đổi niên hiệu là Thông-Thụy, lúc bấy giờ nước Việt-Nam được nhà Tống ban Ðại-tạng-kinh và tự sai sứ thỉnh qua nước ta.  Hành động ấy gây một ảnh hưởng khả quan cho Phật-giáo nước nhà, và một vinh dự tốt đẹp cho triều đình nhà Lý lúc bấy giờ. 

Từ lúc nhận lãnh đại-tạng-kinh của nhà Tống, vua Thái-Tôn thường đến nghe kinh và hỏi đạo với Ngài Thiền-Lão thiền-sư và tự xưng là đệ-tử.  Về sau, vua được Ngài Thiền-Lão truyền tâm pháp và là ngườI thứ bảy trong đờI truyền thống của phái Vô-Ngôn-Thông. 

Dưới đời này, có nhiều vị cao tăng rất có công trong sự truyền-bá chính-pháp, như Ngài Huệ-Linh thiền-sư, Ðịnh-Lương trưởng lão, Thiền-Lão thiền-sư v.v… 

b)     Huệ-Linh thiền-sư. 

Ngài họ Lâm, tên tục là Khu, quê ở Ðông-phù-liệt, nguyên là con cháu Lâm-Phú ở Trà-Sơn (Hà-Ðông bây giờ).  Ngài có tướng mạo khôi ngô, ăn nói lưu loát, từ nhỏ đã nổi tiếng hay văn chữ tốt.  Những khi học Nho còn thừa thời giờ, Ngài lại nghiên-cứu kinh Phật.  Gần 70 tuổi Ngài theo học đạo với Ngài Ðinh-Huệ Thiền-sư; từ đó sự tu học của Ngài càng ngày càng tiến.  Khi được sư phụ truyền tâm pháp cho, Ngài mới đi hành hóa khắp chốn tùng lâm, rồi lên núi Bồ-đề.  Mỗi lần Ngài ngồi nhập định ít nhất cũng là năm bảy ngày.  Người đời bấy giờ thường gọi Ngài là ông “Phật sống”.  Nhà vua cho người đi thỉnh Ngài nhiều phen, Ngài mới chịu về triều.  Sau khi đàm đạo, vua rất kính phục và phong Ngài làm chức Nội-cung-phụ-tăng và sắc truyền ở chùa Vạn-Tuệ gần thành Thăng-Long.  Một hôm trong đại nội có thiết tiệc chay đãi các tăng-sĩ, vua hỏi: 

-  Ðối với tâm nguyên của Phật, các học giả thường cãi nhau.  Trẫm muốn các bậc thượng-đức ở đây, bày tỏ chỗ sở đắc, để trẫm được biết sự học vấn của các Ngài như thế nào. 

Huệ-Linh Thiền-sư liền ứng khẩu đọc bài kệ sau đây: 

Nguyên văn:  Pháp bổn như vô pháp

                        Phi hữu diệc phi không,

                        Nhược nhơn tri thử pháp

                        Chúng-sinh dữ Phật đồng

                        Tịch tịch Lăng-Già nguyệt

                        Không không độ hải châu

                        Trí không không giác hữu

                        Tam muộI nhậm thông châu. 

Dịch nghĩa:    Pháp vốn như không pháp

                        Chẳng có cũng chẳng không

                        Nếu hiểu được pháp ấy

                        Chúng sinh Phật vẫn đồng

                        Trăng Lăng-Già phẳng lặng

                        Thuyền Bát-Nhã chơn không

                        Biết không rồi biết có

                        Tam muộI mặc dung thông. 

Nghe bài kệ, vua rất lấy làm mến phục.  Thời ấy, các vị vương công trong triều và sĩ thứ nhiều người đến hỏi đạo lý và đều tôn Ngài là Thầy. 

Sang đời Thánh-Tôn, Ngài được phong làm Tạ-Nhai-Tăng-đô-thống.  Ðến năm Gia-Khánh thứ năm (1063) Ngài tịch.  Ngài có soạn mấy cuốn: “Pháp sư trai nghi, Ðạo tràng khánh tân văn”, nhưng đều thất truyền.

c)     Thiền-Lão thiền-sư. 

Ngài trụ trì tại chùa Trùng-Minh huyện Tiên Du, đệ-tử của Ða-Bảo thiền-sư.  Sau khi học đã đắc đạo, Ngài về ở ngôi chùa vùng Từ-Sơn, danh tiếng lừng lẫy, học trò đông đến hơn nghìn người.  Chỗ ở của Ngài thành Ðại-Tòng-Lâm. 

Trong khoảng niên hiệu Thông-Thụy (1034-1038) vua Lý-Thái-Tôn nhơn một hôm đến thăm và hỏi Ngài: 

-  Hòa thượng tới ở chùa này bao lâu? 

            Vị thiền-sư đọc hai câu thơ rằng: 

            Nguyên văn:  Ðản tri kim nhật nguyệt

                                    Thùy thức cựu xuân thu. 

            Dịch nghĩa:    Sống ngày nay biết ngày nay

                                    Còn xuân thu trước, ai hay làm gì ? 

            Vua lạI hỏi:  Ngày thường Hòa-thượng làm việc gì ? 

            Ngài lại đọc:                       

            Nguyên văn:  Túy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh

                                    Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân. 

            Dịch nghĩa:    Trúc biếc, hoa vàng đâu cảnh khác

                                    Trăng trong, mây bạc hiện toàn chân. 

            Sau khi về cung, vua định sai sứ rước Ngài vào triều để làm cố vấn.  Sứ giả đến nơi thì Ngài đã tịch rồi. 

3.  Dưới đời Lý-Thánh-Tôn (1054-1072) 

a)     Tình-hình Phật-giáo trong đời nầy. 

Thánh-Tôn lên ngôi, đổi quốc hiệu là Ðại-Việt và lấy niên hiệu là Long-Thụy Thái-Bình.  Ngài là một ông vua rất sùng mộ Ðạo Phật.  Năm Long-Thụy thứ năm (1059), Ngài xuống sắc lịnh dựng chùa xây tháp và đúc một quả chuông trọng lượng 12.000 cân đồng, tại làng Bảo-Thiên thuộc tỉnh Hà-Nội.  Quả chuông ấy hiện nay vẫn còn. 

Trong thời đại này, phái Thảo-Ðường xuất hiện ở Việt-Nam, do Ngài Thảo-Ðường, đệ-tử Ngài Tuyết-đậu Minh-Giác bên Tàu truyền sang.  Vua Lý-Thánh-Tôn thọ giáo với Ngài, sau được truyền tâm pháp làm đệ-tử đầu tiên của phái Thảo-Ðưòng.  Phái Thảo-Ðường tức là phái Thiền-Tôn thứ ba ở nước ta vậy. 

Lý-Thánh-Tôn là một tăng-sĩ được truyền tâm pháp, thì chắc chắn Ðạo Phật lúc bấy giờ rất được phát đạt và có ảnh hưởng lớn lao trong dân chúng lắm. 

b)     Phái Thảo-Ðường. 

Năm 1069 vua Lý-Thánh-Tôn đi đánh Chiêm-Thành, bắt được vua Chiêm-Thành là Chế-Củ và nhiều dân, cận vệ làm tù binh.  Những tù binh này, vua ban cho các quan trong triều làm người hầu hạ.  Trong số các quan trong triều, có một vị Tăng-Lục.  Một hôm, vị tăng ấy đi vắng, về bỗng thấy bản “ngữ lục” của mình bị một tù nhân sửa chữa lạI cả.  Vị Tăng-Lục thất kinh, đem việc ấy tâu với vua.  Vua cho đòi tên tù nhân ấy hỏi, thì y ứng đối rất thông suốt, luận về kinh Phật rất xác đáng.  Hỏi ra mới biết đó là một thiền-sư ngườI Trung-Hoa, theo thầy qua Chiêm-Thành, rồi bị bắt làm tù.  Vị thiền-sư ấy tức là Ngài Thảo-Ðường. 

Khi biết rõ tung tích của Ngài Thảo-Ðường thiền-sư, vua Thánh-Tôn liền sắc phong Ngài làm Quốc-sư, cho giảng kinh tại chùa Khải-Quốc trong thành Thăng-Long.  Ðệ-tử đến xin học rất đông.  Ngài biệt lập một phái, người sau gọi là phái Thảo-Ðường. 

4.  Dưới đời Lý-Nhân-Tôn (1072-1127) 

a)     Tình-hình Phật-giáo trong thời này. 

Lý-Nhân-Tôn, mặc dù khi nối ngôi Lý-Thánh-Tôn tuổi còn nhỏ mà rất thông minh, anh dũng.  Ngài rất hâm mộ Phật-giáo, cho nên ngoài công việc triều chánh ra Ngài còn để tâm lo truyền-bá Phật-Pháp.  Ngài có đặt một vị quan cao cấp trông nom hết thảy các chùa trong nước, Ngài lại phong cho Khô-Ðầu thiền-sư làm quốc-sư để cố-vấn việc quốc chính, như Ngài Khuông-Việt dưới đời Ðinh và Tiền Lê. 

Song song với việc chấn hưng Phật-pháp của vua, bà Hoàng-hậu cũng là một tín nữ đắc lực, đã xuất của riêng ra lập hơn 100 ngôi chùa ở trong nước. 

Trong đời này, lại có nhiều bậc Thiền-sư lỗi-lạc, trước thuật những sách vở làm vẻ-vang cho lịch-sử Phật-giáo nước nhà như Ngài Viên-Chiếu thiền-sư, Ngộ-Ấn thiền-sư v.v… 

b)     Viên-Chiếu Thiền-sư. 

Ngài họ Mai, tên húy là Trực, quê ở huyện Long-Ðàm, con anh bà Linh-cảm thái-hậu (vợ vua Thái-Tôn).  Ngài thông minh từ thuở nhỏ, mặc dù con nhà quyền quý, Ngài từ giả gia-đình, vào chùa Tiêu-Sơn, xin làm đệ-tử Ngài Ðịnh-Hương thiền-sư, nghiên-cứu thiền học.  Ngài rất am hiểu pháp “Tam quán” trong kinh Viên-Giác, tu đến đắc đạo và được sư phụ truyền tâm ấn. 

            Sau Ngài về Thăng-Long, dựng một ngôi chùa ở mé tả kinh thành và Trụ-trì tại đó.  Người bốn phương nghe tiếng đến xin theo học rất đông. 

            Ngài có soạn quyển: “Dược sư thập nhị nguyên văn”, trong bài ấy giải về mười hai điều đại nguyện trong kinh Dược-Sư.  Vua Lý-Nhân-Tôn có đưa bản sách ấy cho sứ thần sang Tàu dâng vua Triết-Tôn nhà Tống.  Vua Tống giao sách ấy cho các vị sư Thượng-tọa ở chùa Tướng-Quốc xem và có chỗ nào đáng sửa thì sửa lại.  Các đại sư Tàu xem rồi, tâu vớI vua Tống rằng: “Ðây là đấng hóa thân đại sĩ ra đời ở phương nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, bọn phàm tăng chúng tôi đâu dám thêm bớt một chữ nào nữa !” 

            Vua Tống sắc cho sao lại một bản, còn bản chính thì trả lại cho vua ta với nhiều lời khen tặng.  Ngài Viên-Chiếu tịch năm Quảng-hựu thứ sáu (1090) thọ 92 tuổi. 

            Sau đây là bài thơ của Ngài còn truyền lại: 

            Nguyên văn:  Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo

                                    Sơn nham đáo nguyệt quá tường lai

                                    Vũ trích nham hoa thần nữ lệ

                                    Phong xoa đình trúc Bá-nha cầm. 

            Dịch nghĩa:    Theo gió tiếng còi luống bụi trúc

                                    Kèm trăng trái núi quá đầu tường

                                    Hoa núi mưa sa thần nữ khóc

                                    Tre sân gió thổi Bá-Nha đàn.

5.  Dưới đời Lý-Thần-Tôn (1128-1138) 

            Lý-Nhân-Tôn không có con, lập con của hoàng đệ là Sùng-hiền-Hầu lên làm Thái-tử, sau lên ngôi tức là Thần-Tôn.  Năm Thiên-chương Bảo tự thứ tư (1136) vua mắc bệnh nặng, nhờ có Minh-Không thiền-sư chữa khỏi, nên vua phong cho Thiền-sư làm Quốc-sư và sắc lập chùa Linh-Cảm. 

            Trong đời này cũng có nhiều vị danh tăng như Minh-Không thiền-sư, Thông-Biện thiền-sư, Bảo-Giám thiền-sư và đặc biệt có một sư Ni, con gái một vị Hoàng thân, tức là bà Diệu-Nhân.  Vị sư Ni này thọ giới với Chân-Không thiền-sư và là vị Ni đầu tiên trong phái Tỳ-ni-đa-lưu-Chi.  Ngoài ra, trong thời nầy cũng có đạo trường dạy đệ-tử hoặc đi hành hóa, dùng pháp thuật cứu giúp kẻ bệnh tật rất nhiều. 

6.      Dưới đời các vị vua cuối đời nhà Lý:  Lý-Anh-Tôn (1138-1175), Lý-Cao-Tôn (1176-1210), Lý-Huệ-Tôn (1211-1225). 

a)     Lý-Anh-Tôn và thời đại này. 

Thần-Tôn mất, Thái-tử Thiên-Tộ lên làm vua lấy đế hiệu là Anh-Tôn.  Anh-Tôn là đệ-tử của Không-Lộ thiền-sư (phái Thảo-Ðường) và được truyền tâm pháp, tức là vị đệ-tử thứ tư nối truyền thống của phái Thảo-Ðường. 

Những Thiền-sư có tiếng trong đời này là Trí-Thuyền, Am-Trí, Bảo-Giám, Viên-Thông Thiền-sư.  Ngài Viên-Thông Thiền-sư được phong làm Quốc-sư vào năm 1143, tịch năm 1151, thọ 72 tuổi.  Ngài có trước tác những bộ sách hiện còn lưu lại: 

-         Chư Phật tích duyên sự (30 chương).

-         Hồng chung văn bi kỷ.

-         Tăng-Già tạp lục (50 chương).

-         1.000 bài thơ. 

b)     Lý-Cao-Tôn và thời đại này. 

Anh-Tôn mất, Thái-tử Long-Cán nối ngôi, hiệu là Cao-Tôn.  Cao-Tôn lên ngôi mới ba tuổi, công việc trong triều giao trong tay quan phụ chánh Tô-Hiến-Thành.  Cao-Tôn lớn lên, thụ giáo với Ngài Trương-Tam-Tạng thiền-sư trong phái Thảo-Ðường. 

Trong đời này, tuy vua chúa, các bà Cung-phi và triều-đình (như Thái-úy Tô-Hiến-Thành, Thái-bảo Ngô-Hòa-Nghĩa) đều sùng mộ Ðạo Phật, nhưng sự phát-triển không có gì đặc-sắc đáng kể.  Vận nước đang xuống, và Phật-giáo cũng xuôi đà theo. 

c)     Lý-Huệ-Tôn và thời đại này. 

Thái-tử Sam nối ngôi Cao-Tôn, tức là Huệ-Tôn.  Nhà Lý đến giai-đoạn này, đã suy lắm.  Trong triều thì nội loạn, vua không có thực quyền, ngoài dân gian cũng không được yên ổn.  Do đó, Phật-giáo cũng bị ảnh-hưởng theo. 

Năm 1224, Huệ-Tôn chán ngán cái đời làm vua, truyền ngôi cho con gái mới có 7 tuổi là Công-chúa Phật-Kim, tức Lý-Chiêu-Hoàng, rồi xuất-gia ở chùa Chân-Giác, tự xưng là Huệ-Quang đại-sư. 

Lý-Chiêu-Hoàng truyền ngôi cho chồng là Trần-Cảnh.  Nhà Lý chấm dứt từ đấy ! 

7.      Nhận xét chung về Phật-giáo đời nhà Lý. 

Nếu ở Trung-Hoa, đời Ðường là đời Phật-giáo được thịnh hành nhất, thì ở Việt-Nam, đời Lý là đời Phật-giáo được thạnh hành nhất. 

Trong hơn hai trăm năm, đạo Phật giữ địa-vị độc tôn về mọi phương diện: Ðạo-đức, văn-học, chánh-trị, ngoại-giao.  Tám đời vua nhà Lý đều sùng mộ Ðạo Phật và có nhiều vị đã xuất-gia đắc đạo.  Các vị tăng trong các đời vua ấy là những cao tăng, đại-đức, thông thái và giữ nhiều địa vị quan trọng trong triều đình.  Không những thế, các Ngài còn là những nhà thi sĩ lỗi-lạc, những nhà ngoại-giao tài tình và những nhà mô phạm uyên bác.  Các Ngài đã tận tụy đem cái sở học, sở đắc của mình nhập thế cứu đời, dây uy-tín rất lớn cho Ðạo Phật.  Chính các Ngài đã gián tiếp cải chính một cách hùng hồn bằng những hành-động của mình rằng: Ðạo Phật không phải là yếm-thế, nhu-nhược mà chính là tích-cực, dõng-mãnh cứu đời và đã góp công rất lớn trong cuộc dựng nước và an dân.  Ðọc lịch-sử Phật-giáo nước nhà đến giai-đoạn này, chúng ta thật vô cùng phấn khởi và càng thêm tin tưởng vào sứ-mệnh cứu đời của Phật-giáo.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ V )
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM (TIẾP THEO)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712