Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Khái Niệm Tổng Quát Về Tứ Diệu Ðế

LỜI NÓI ÐẦU 

Ðạo Phật truyền vào Việt-nam gần hai mươi thế-kỷ, cho nên phần đông dân số nước ta là tín-đồ Ðạo Phật.  Người ta thường nói “Ðạo Phật là đạo ông bà”,  hay “Nhà nào có đốt hương, đều là tín-đồ đạo Phật cả…”  Kể về số lượng thì tín-đồ Phật-giáo ở Việt-nam thật là đông đảo.  Nhưng xét về phần phẩm, chúng ta chưa có thể lạc-quan được. 

            Tình-trạng phẩm ít, lượng nhiều ấy phát sinh vì nhiều nguyên-nhân phức-tạp: 

-         Có người theo đạo Phật vì truyền-thống của ông cha (ông cha theo đạo Phật, nên con cháu cũng theo). 

-         Có người theo đạo Phật vì cảm-tình đối với thân-bằng quyến-thuộc, hay đối với cái Ðạo đã chia-xẻ những phút vui buồn, thịnh suy của đất nước. 

-         Có người theo đạo Phật, vì mong cầu được tai qua nạn khỏi, hay cầu của, cầu con v.v… 

Ngày nay, vẫn biết có một số tín-đồ đã hiểu đúng giá-trị cao-siêu và lợi-ích rộng-lớn của Ðạo Phật, nhưng cái số ấy không phải là đa-số, nếu đem so với cái khối tín-đồ hiểu Ðạo một cách nông-cạn, hay sai-lạc nói trên. 

Vì không hiểu thấu đáo Ðạo Phật, nên lòng tin không được chắc chắn.  Mỗi khi gặp một lý-thuyết nào lạ, một tôn-giáo nào mới, thì họ ùa tin theo, như cây thiếu rễ cái, gió thổi phía nào thì ngã rạp theo phía ấy, thật đáng buồn thương. 

Tình-trạng buồn thương ấy có thể bổ cứu được, nếu chúng ta có một chương-trình dạy Phật-pháp bằng chữ Việt, Dân-tộc ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, mà kinh sách toàn bằng chữ ngoại quốc; cả pho triết-lý cao-sâu của Ðạo Phật vẫn còn nằm nguyên trong 3 tạng chữ Tàu, thử hỏi có mấy ai đọc được?  Như thế thì bảo tín-đồ làm sao hiểu biết giáo-lý cao-sâu của Ðạo Phật và lòng tin làm sao vững-chắc được? 

Nóng lòng vì tình-cảnh ấy, chúng tôi bạo-dạn và cố-gắng soạn ra chương-trình “Phật-học phổ-thông” này, mong giúp tín-đồ mau hiểu giáo-lý, thấy được chỗ quý-báu của Ðạo, để cho lòng tin được chơn chánh và vững bền. 

Chúng tôi tự biết đức bạc tài sơ, chưa đủ khả-năng làm việc vĩ-đại này.  Nhưng nếu do-dự và nhún-nhường mãi, rồi suốt đời cũng chẳng làm được việc gì.  Chi bằng cứ cố-gắng hy-sinh đắp trước con đường đất, để cho các bậc có tài đức sau này sửa-chữa lại, rồn cán đá và trán nhựa. 

Chương-trình “Phật-học phổ-thông” có mục-đích xây dựng cho tín-đồ có căn-bản giáo-lý, hiểu biết Phật-pháp từ thấp đến cao, lấy ngũ-thừa Phật-giáo làm nền-tảng. 

Từ khóa thứ nhất đến khóa thư tư, chúng tôi đã soạn hết Ngũ-thừa Phật-giáo.  Khi tín-đồ đã hiểu giáo-lý căn-bản nói trên thì các khóa sau, chúng tôi sẽ mở thêm bề rộng và xây thêm bề cao của tòa nhà Phật-giáo.  Từ khóa thứ V đến khóa thứ XII, tín-đồ sẽ tuần tự học về đại-cương kinh Lăng-Nghiêm, Viên-Giác, Kim-Cang, Tâm-Kinh và Duy-Thức Luận. 

Chương-trình này, chúng tôi đã soạn từ năm 1953 đến nay và đã xuất bản thành tập, từ tập Phật-học Phổ-thông thứ nhất cho đến thứ tám và đang tiếp-tục biên soạn khóa IX, X, XI, XII. 

Công việc trên đây là cả một gánh nặng, mà đường lại dài, chúng tôi khẩn-thiết yêu-cầu những vị nhiệt-tâm vì đạo, từ quý vị đại-đức Tăng-già cho đến các hàng Cư-sĩ, kẻ công người của tiếp sức với chúng tôi (hoặc giúp sáng-kiến, tài-liệu hay tài-chánh), cùng nhau xây dựng cho hoàn-bị một chương-trình Hoằng-pháp ở nước nhà, hầu bổ cứu những khuyết-điểm và dẹp bỏ những tình-tệ trong Ðạo Phật từ trước đến nay. 

Chúng tôi chấm dứt trong sự tin-tưởng ở lòng nhiệt-thành vì đạo của quý vị độc-giả xa gần.

Khái-niệm tổng-quát về

TỨ - DIỆU - ÐẾ (ARIYA SACCANI) 

 A.  MỞ-ÐỀ: 

NGUYÊN-NHÂN VÀ HOÀN-CẢNH ÐỨC PHẬT THÍCH-CA GIẢNG VỀ PHÁP TỨ-DIỆU-ÐẾ LẦN ÐẦU TIÊN 

            Ðức Phật Thích-Ca, sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề, liền nghĩ đến việc đem giáo-lý mà Ngài vừa chứng được, ra truyền-bá cho chúng-sinh.  Nhưng giáo-lý của Ngài là giáo-lý cao-siêu, thâm-diệu, còn chúng-sanh phần đông căn-cơ còn thấp kém, khó có thể giác-ngộ nhanh-chóng như Ngài được.  Nhưng không lẽ vì giáo-pháp của Ngài thậm-thâm vi-diệu mà không giáo-hóa chúng-sinh?  Ðể làm tròn nhiệm-vụ hóa-độ của Ngài, Phật phương-tiện nói pháp Tứ-diệu-đế là Tiệm-giáo để cho chúng-sinh dễ bề tu-hành.

            Quán-sát căn-cơ năm người bạn đồng tu với Ngài trước kia, là nhóm ông Kiều-Trần-Như, có thể khai-ngộ được với pháp Tứ-diệu-đế, đức Phật đi đến Lộc-Uyển là nơi họ đang tu-hành để nói pháp Tứ-diệu-đế. 

            Sau khi nghe Phật thuyết-pháp Tứ-diệu-đế, thành-kiến mê-lầm tan vỡ, trí-huệ siêu thoát xuất-hiện, năm vị này được ngộ đạo, chứng nhập quả-vị A-La-Hán.  Ðó là năm vị đệ-tử đầu tiên của đức Phật Thích-Ca. 

            Từ đây về sau, Tứ-diệu-đế là giáo-lý căn-bản về Tiệm-giáo (phương-pháp tu chứng từ từ) và đã giác-ngộ cho không biết bao nhiêu đệ-tử của Phật. 

            Ngày nay, chúng tôi đem giáo-pháp Tứ-diệu-đế ra trình-bày với quí vị độc-giả trong tập sách này, cũng không ngoài mục-đích ấy. 

B.  CHÁNH-ÐỀ: 

I.                   ÐỊNH-NGHĨA VỀ TỨ-DIỆU-ÐẾ 

Tứ là bốn; Diệu là hay, đẹp, quý-báu, hoàn-toàn; Ðế là sự-thật chắc-chắn, rõ-ràng đúng-đắn nhất.  Chữ Phạn là Ariya Saccani. 

Tứ-diệu-đế là bốn sự thật chắc-chắn, quý-báu, hoàn-toàn nhất, không có một giáo-lý ngoại-đạo nào có thể sánh kịp.  Với bốn Sự-Thật mà đức Phật đã phát-huy này, người tu-hành có thể từ địa-vị tối-tăm, mê-mờ, đi lần đến quả-vị giác-ngộ một cách chắc thật, không sai chạy, như một ngọn đuốc thiêng có thể soi đường cho người bộ-hành đi trong đêm tối đến đích.  Vì cái công-dụng quý-báu, mầu-nhiệm, vô cùng lợi-ích như thế nên mới gọi là Diệu. 

Chữ Ðế còn có nghĩa là một Sự-Thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cả các Sự-Thật khác, và muôn đời bất di dịch, chứ không phải là sự-thật hạn cuộc trong không-gian và thời-gian. 

Trong giáo-lý Tiểu-thừa thì Tứ-diệu-đế là giáo-lý căn-bản. 

II.               TỨ-DIỆU-ÐẾ GỒM NHỮNG GÌ? 

Tứ-diệu-đế là: Khổ-đế, Tập-đế, Diệt-đế và Ðạo-đế. 

1.      Khổ-đế (Dukkha). 

Khổ-đế là chân-lý chắc-thật, trình bày rõ-ràng cho chúng ta thấy tất cả những nỗi khổ-đau trên thế-gian này mà mỗi chúng-sinh đều phải chịu, như sống là khổ, đau là khổ, già là khổ, chết là khổ v.v…  Những nỗi khổ dẫy-đầy trên thế-gian, bao vây chúng ta, chìm đắm chúng ta như nước biển.  Do đó, đức Phật thường ví cõi đời là một bể khổ mênh-mông. 

2.      Tập-đế (Sameda Dukkha). 

Tập-đế là chân-lý chắc thật, trình-bày nguyên-nhân của bể khổ trần-gian, là lý-do vì đâu có những nỗi khổ ấy.  Khổ-đế như là bản kê hiện-trạng của chứng bệnh; còn Tập-đế như là bản nói rõ nguyên-nhân của chứng bệnh, lý-do vì sao có bệnh. 

3.      Diệt-đế (Nirodha Dukkha) 

Diệt-đế là chân-lý chắc thật, trình-bày rõ-ràng hoàn-cảnh, quả-vị an lành, tốt-đẹp mà chúng-sinh sẽ đạt đến khi đã diệt-trừ được những nỗi khổ và những nguyên-nhân của đau-khổ.  Diệt-đế như là một bản cam-đoan của lương-y nói rõ sau khi người bệnh lành thì sẽ ăn ngon, ngủ yên như thế nào, thân-thể sẽ tráng-kiện, tâm-hồn khoan-khoái như thế nào. 

4.      Ðạo-đế (Nirodha Gamadukkha). 

Ðạo-đế là những phương-pháp đúng-đắn, chắc thật để diệt-trừ đau-khổ.  Ðó là chân-lý chỉ rõ con đường quyết-định đi đến cảnh-giới Niết-bàn.  Nói một cách giản-dị, đó là những phương-pháp tu-hành để diệt khổ và được vui. 

Ðạo-đế cũng như cái toa thuốc mà vị lương-y đã kê ra để người bịnh mua và những lời chỉ-dẫn mà bịnh-nhân cần phải y theo để lành bệnh. 

III.            BỐ-CỤC KỲ-DIỆU CỦA TỨ-DIỆU-ÐẾ 

Tứ-diệu-đế đã được Ðức Phật sắp-đặt theo một thứ tự rất khôn-khéo, hợp lý, hợp tình.  Ngày nay các nhà nghiên cứu Phật-học Âu Tây, mỗi khi nói đến Tứ-diệu-đế, ngoài cái nghĩa-lý sâu-xa, nhận-xét xác-đáng, còn tấm-tắc tán-thán cái kiến-trúc, cái bố-cục, cái thứ-lớp của toàn bộ pháp-môn ấy. 

Trước tiên, đức Phật chỉ cho chúng-sanh thấy cái thảm cảnh hiện-tại của cõi đời.  Cái thảm-cảnh bi-đát nầy nó nằm ngay trước mắt ta, bên tai ta, ngay trong chính mỗi chúng ta; những sự-thật có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, rờ được, chứ không phải những sự-thật xa-lạ ở đâu đâu.  Ðã là một chúng-sinh, ai không có sanh, ai không đau-ốm, ai không già, ai không chết v.v…?  Và những trạng-thái ấy đều mang theo tánh-chất khổ cả.  Ðã có thân, tất phải khổ.  Ðó là một chân-lý rõ-ràng, giản-dị, không ai là không nhận thấy, nếu có một chút ít nhận-xét.

Khi chỉ cho mọi người thấy cái khổ ở trước mắt, ở chung-quanh và chính trong mỗi chúng ta rồi, đức Phật mới đi qua giai-đoạn thứ hai, là chỉ cho chúng-sanh thấy nguồn-gốc, lý-do của những nỗi khổ ấy.  Ngài đã từ hiện-tại đi dần về quá-khứ, đã từ bề mặt đi dần xuống bề sâu, đã từ cái dễ thấy đến cái khó thấy.  Như thế là lý-luận của Ngài đã đặt căn-bản lên thực-tại, lên những điều có thể chứng-nghiệm được, chứ không phải xa-lạ, viễn-vông, mơ-hồ. 

Ðến giai-đoạn thứ ba, đức Phật nêu lên, trình-bày cho chúng ta thấy cái vui-thú của sự hết khổ.  Giai-đoạn nầy tương phải với giai-đoạn thứ nhất: giai-đoạn trên khổ-sở như thế nào, thì giai-đoạn nầy lại vui-thú như thế ấy.  Cảnh giới vui-thú mà Ngài trình-bày cho chúng ta thấy ở đây, cũng không có gì là mơ-hồ, viễn-vông; vì nếu đã có cái khổ, thì tất-nhiên phải có cái trái lại với cái khổ là cái vui.  Và khi đã thấy rõ được cái khổ như thế nào, thì mới hăng-hái tìm cách để thoát khổ và khao-khát hướng đến cái vui mà đức Phật đã giới-thiệu. 

Ðến giai-đoạn thứ tư là giai-đoạn Phật dạy những phương-pháp để thực-hiện cái vui ấy.  Ở đây chúng ta nên chú-ý là đức Phật trình-bày cảnh-giới giải-thoát trước, rồi mới chỉ bày phương-pháp tu-hành sau.  Ðó là một lối trình-bày rất khôn-khéo, đúng tâm-lý: trước khi bảo người ta đi, thì phải cho người ta biết rõ đi đâu đã chứ, phải nêu mục-đích sẽ đến như thế nào, rồi để người ta suy-xét, lựa-chọn có nên đi hay không.  Nếu người ta nhận thấy mục-đích ấy cao-quý, đẹp-đẽ, khi ấy người ta mới hăng-hái, nổ-lực không quản khó-nhọc, để thực-hiện cho được mục-đích ấy. 

Như thế, chúng ta có thể phác-họa lại cái bố-cục của bức họa Tứ-diệu-đế như sau: 

Chúng ta đang đứng trước một bức họa vĩ-đại gồm có hai phần chính: Phần dưới là một bể thẳm mênh-mông, sóng gió tơi-bời, trong ấy thuyền bè đang bị đắm-chìm, với vô-số nạn-nhân đang lặn-hụp, kêu-la, khóc-lóc, chới với…(Khổ-đế). 

Trong cái phần của bức tranh, ta cũng thấy được những nguyên-nhân gây ra những thảm-họa ấy: đó là những luồng gió dục-vọng, tham, sân, si…, những đám mây vô-minh đen nghịt, che khuất cả mặt trời (Tập-đế). 

Nhìn đến phần trên của bức họa, ta thấy quang-cảnh dần dần sáng-sủa, yên-tĩnh; ở đây, giông-tố không đến được, không có những vực sâu, hố hiểm, không có những nạn-nhân đang rên-siết, khóc than…  Ðây là một miền cao-nguyên, càng lên cao, cảnh-trí càng đẹp-đẽ, yên-vui.  Người ở đây trông có vẻ bình-tĩnh, thảnh-thơi, vui-vẻ lắm; và cũng như cảnh-trí, những người càng ở tầng bậc cao thì lại càng có dung-mạo đẹp-đẽ, cốt-cách phương-phi, giải-thoát… (Diệt đế).

Trong phần nầy, nếu chúng ta chú-ý nhìn rõ, thì thấy từ một cảnh ở dưới lên một cảnh trên, có những con đường đi với những cái bảng để tên đường đi rất hay như: Tứ-niệm-xứ, Tứ-chánh-cần, Tứ-như-ý-túc, Bát-chánh-đạo v.v…  Trên những con đường ấy, có rất nhiều người đang đi lên, và rất ít người đi xuống.  Và càng lên cao thì con đường lại càng rộng-rãi, mát-mẻ, tốt đẹp và những khách bộ-hành lại càng mang rất ít hành lý… (Ðạo đế). 

Bức họa ấy có ghi mấy chữ ở phần dưới là : “Thế-gian” và phần trên là “Xuất-thế-gian”. 

Ðây, bức họa Tứ-diệu-đế rõ-ràng trình-bày ra trước mắt chúng ta hai cảnh-giới: Thế-gian và Xuất-thế-gian tương phản như thế đó.  Những ai đã nhìn được bức họa ấy, tất đều có một thái-độ là muốn xa-lánh cảnh ở phần dưới và mong-ước được sống trong cảnh-giới trình-bày ở phần trên bức họa. 

IV.             ÐỊA-VỊ QUAN-TRỌNG CỦA TỨ-DIỆU-ÐẾ TRONG TOÀN BỘ GIÁO-LÝ CỦA ÐỨC PHẬT THÍCH-CA 

Tứ-diệu-đế là giáo-lý căn-bản của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu-thừa mà chung cho cả Ðại-thừa nữa.  Người tu-hành muốn có một kết-quả chắc-chắn, không thể bỏ qua Tứ-diệu-đế được.  Pháp-môn nầy, tuy tiến chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắ bước nấy.  Pháp-môn nầy tuy không đưa thẳng người tu-hành đến quả-vị Phật, nhưng với một sự tinh-tấn và quyết tâm, nó có thể dễ-dàng đưa người tu-hành đến quả-vị A-la-hán.  Rồi từ quả-vị A-la-hán, hành-giả sẽ tu theo một pháp-môn khác của Ðại-thừa, để tiến đến quả-vị Phật.  Căn-cơ nào, trình-độ nào cũng có thể tu theo pháp-môn nầy được, chứ không phải như một số pháp-môn khác, phải cần có một trình-độ học-thức cao và một trí-tuệ trên mức trung-bình, mới có thể theo được.  Vì thế, nó là một pháp-môn phổ-thông cho cả hai phái Tiểu-thừa lẫn Ðại-thừa, Nam-tông và Bắc-tông.  Ngày nay pháp-môn này là pháp-môn được phổ-biến nhất trên thế-giới.  Các Phật-tử Âu-Mỹ hầu hết đều tu theo pháp-môn nầy và những tập sách nghiên-cứu về đạo Phật, của những nhà Phật-học Tây-phương, đều nói nhiều nhất về Tứ-diệu-đế. 

C.  KẾT-LUẬN: 

PHẬT-TỬ PHẢI HỌC VÀ THỰC-HÀNH PHÁP TỨ-DIỆU-ÐẾ 

            Một giáo-lý căn-bản, quan-trọng như Tứ-diệu-đế, người Phật-tử không thể không hiểu biết được.  Không hiểu biết về Tứ-diệu-đế là không hiểu biết gì về giáo-lý đạo Phật cả.  Người Phật-tử, hơn ai cả, phải thấu-triệt cõi đời là khổ.  Muốn thế, không gì hơn là hãy lắng nghe đức Phật dạy về Khổ-đế, vì chỉ có Khổ-đế mới nói lên một cách tường-tận, đầy-đủ, chính-xác về mọi nỗi khổ-đau của cõi đời.

            Thấy rõ được mọi khổ đau rồi, ta cần tìm-hiểu vì đâu có khổ, nguyên-nhân của khổ là đâu.  Vì chỉ khi nhận thấy được nguồn-gốc của nó, mới có thể diệt-trừ tận gốc nó được.  Ðiều nầy, cũng không chỗ nào nói rõ-ràng, phân-tích rành-mạch bằng Tập-đế.  Nhưng thấy được mọi khổ-đau của cõi đời và nguồn-gốc của nó, không phải để mà chán-ngán, khóc-lóc, rên-xiết.  Nếu thế thì không có gì tiêu-cực và bi-quan bằng.  Một số dư-luận tưởng lầm đạo Phật là yếm-thế, bi-quan là vì họ đã dừng lại ở hai phần đầu của Tứ-diệu-đế. 

            Nhưng người Phật-tử không dừng lại đó.  Ðã thấy đau-khổ làm cho cuộc đời xấu-xa, đen-tối, khổ-đau, thì phải diệt-trừ đau-khổ.  Hạnh-phúc không đâu xa; hạnh phúc hiện ra sau khi đã diệt-trừ được đau-khổ.  Ðau-khổ lùi chừng nào thì hạnh-phúc đến chừng ấy, như bóng tối tan đi đến đâu thì ánh-sáng thay vào đến đó.  Muốn thấy ánh-sáng của Niết-bàn thì phải thực-hiện những lời dạy của Phật trong Diệt-đế. 

            Muốn thực-hiện Niết-bàn thì phải có đủ phương-tiện.  Những phương-tiện nầy, đức Phật đã cung-cấp một cách đầy-đủ trong Ðạo-đế. 

            Như thế, đức Phật Thích-Ca đã làm đầy-đủ nhiệm-vụ của kẻ dẫn đường cho chúng ta đi từ cõi đời đen-tối đến quả-vị A-la-hán.  Ngài đã đặt vào tay chúng ta một bản-đồ chỉ dẫn rõ-ràng về cuộc hành-trình và bang cho chúng ta đầy-đủ phương-tiện cần-thiết trong chuyến đi vĩ-đại ấy. 

            Chúng ta chỉ còn lên đường và bước tới.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ III )
KHỔ ÐẾ
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712