Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

06 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)

BÀI THỨ SÁU

PHẦN CHÁNH TÔN (tiếp theo)

26.    PHẬT NÓI CÔNG-ÐỨC THỌ-TRÌ KINH KIM-CANG BÁT-NHà

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có người tự đem thân mạng mình, nhiều như cát sông Hằng để bố-thí, thì người đó có phước-đức nhiều lắm.  Nhưng nếu có người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, trọng quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức người này nhiều hơn người trước”. 

LƯỢC GIẢI 

       Kinh này quí báu và lợi-ích vô cùng, nên Phật đã nhiều lần tán-thán công-đức, khuyên người thọ trì và giảng dạy cho ngườ.  Từ trước đến đây đã năm lần nói về công-đức của kinh này. 

       Ðoạn trước (19) nói, người dùng ngoại tài là 7 món báu, nhiều như số cát sông Hằng đem bố-thí, phước đức của người này tuy nhiều, nhưng không bằng người thọ trì và giảng dạy kinh Kim-Cang Bát-Nhã phước đức lại nhiều hơn. 

       Ðoạn này nói, người đem nội tài là thân mạng của mình ra bố-thí; chỉ bố-thí một thân mạng phước đức đã nhiều và ít ai làm được, huống chi là bố-thí thân mạng của mình nhiều như số cát sông Hằng, thì phước đức biết là bao nhiêu! 

       Nhưng nếu có người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này từ một quyển, hay nửa quyển cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì người này phước đức nhiều hơn người trước. 

       Bố-thí thân mạng, tuy ít người làm được, nhưng phước đức vẫn còn ở trong vòng hữu-vi và hữu-lậu.  Người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, thì mình và người đều được ngộ nhập “Kim-Cang Bát-Nhã” và sẽ được thành Phật; rồi trở lại hóa độ vô số chúng-sanh, nên phước đức của người này, thuộc về vô-lậu vô-vi, nhiều hơn người trước. 

       Nói về công-đức thọ trì kinh này, Ngài Trí-Giả Ðại-sư có làm bài tụng: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Hằng sa số thậm đa

               Sa số cách nan lương

               Cử sa tề thất bảo

               Năng trì bố-thí tương

               Hữu tướng giai vi huyễn

               Ðồ ngôn trí-huệ cường

               Nhược luận tứ cú kệ

               Thử phước mạt vi trường! 

       Dịch nghĩa: 

               Kể sông Hằng đã quá

               Số cát lại nhiều hơn

               Chứa báu nhiều như thế

               Thí tài số biết bao

               Chấp mê theo giả tướng

               Dầu đặng phước huệ cao

               Sánh với bốn câu kệ

               Phước kia có chút nào! 

ÐẠI Ý BÀI TỤNG 

       Chỉ đếm sông Hằng đã không hết, huống chi là đếm số cát trong vô số sông Hằng.  Người đem của báu nhiều bằng số cát trong vô số sông Hằng ra bố-thí, phước đức tuy nhiều, nhưng thuộc hữu-vi, hữu-lậu. 

       Không bằng người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này chừng bốn câu, thì phước đức nhiều hơn người trước. 

27.    ÔNG TU-BỒ-ÐỀ BÙI-NGÙI CẢM-ÐỘNG RƠI NƯỚC MẮT 

Sau khi thấy Phật nhiều lần ân-cần, nhắc nhở khuyên dạy, ông Tu-Bồ-Ðề nghe hiểu được nghĩa lý thâm-thúy của kinh này, nên lúc bấy giờ, ông cảm-động bùi-ngùi và sa nước mắt!... 

       Ông Tu-Bồ-Ðề bạch Phật rằng: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Con tuy đặng huệ-nhãn đã lâu, nhưng chưa từng nghe được Phật nói kinh-điển, nghĩa lý cao-siêu, huyền-diệu, quí hóa như thế này! 

LƯỢC GIẢI 

       Chúng ta mỗi khi bị xúc-cảm một việc gì quá mạnh, hoặc buồn hay vui, đều có rưng nước mắt.  Ông Tu-Bồ-Ðề vì thấy Phật đã nhiều lần ân-cần nhắc nhở thọ trì và khuyên dạy những nghĩa lý thâm-thúy cao-siêu của kinh này, mà từ hồi nào đến giờ ông chưa từng được nghe, nên ông cảm-động rơi nước mắt. 

28.    NGƯỜI NGHE KINH NÀY SANH LÒNG TIN, NGƯỜI ẤY ÐƯỢC CÔNG-ÐỨC THỨ NHỨT 

Ông Tu-Bồ-Ðề thưa Phật: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Nếu có người nghe kinh này, sanh lòng tin trong sạch, ngộ được thật-tướng (tánh Bát-Nhã) thì người ấy sẽ đặng thành-tựu công-đức hy-hữu thứ nhứt. 

-          Bạch Thế-Tôn!  Như-Lai nói “thật tướng”, tức không phải “thật tướng”, chỉ tạm gọi là “thật tướng”. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này ông Tu-Bồ-Ðề nói:  người nghe kinh này mà ngộ được “thật tướng Bát-Nhã”, thì người ấy đặng công-đức hy-hữu.  Và ông phá luôn cái chấp “thật tướng”. 

       Người có cái khiếu (theo Duy-thức học gọi là hạt giống) âm nhạc, nghe âm-nhạc mới biết hay.  Người có cái khiếu thi thơ, nghe thi thơ mới biết thích.  Cũng thế, người có cái khiếu hay hạt giống Bát-Nhã, nghe đến kinh Bát-Nhã mới sanh lòng tin và ngộ nhập được “Thật tướng Bát-Nhã”.  Bởi thế nên người này được công-đức vô lượng. 

       Vừa nói đến “thật tướng”, ông Tu-Bồ-Ðề sợ người chấp “thật tướng”, nên ông liền phá luôn cái chấp ấy, bằng cách dẫn lời Phật dạy: “Như-Lai nói thật tướng, tức là không phải thật tướng, chỉ tạm gọi là thật tướng”. 

GIẢI DANH TỪ 

       THẬT TƯỚNG:  Phật nói “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, (phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng). 

       Vậy thì cái không hình tướng mới là chơn thật.  Kinh chép: “Vô tướng chi tướng, cố danh thật tướng”, (cái tướng mà không có hình tướng mới gọi là thật tướng). 

       Căn cứ theo lời giải-thích này, thì “thật tướng” là không còn các vọng-tướng và vọng-chấp, tức là “Bát-Nhã Chơn-Không”. 

29.    NGƯỜI CÓ HẠT GIỐNG BÁT-NHÃ MỚI TIN VÀ HIỂU ÐƯỢC KINH NÀY 

Ông Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Hiện nay con nghe đặng kinh này, hiểu được tin được và thọ-trì, chẳng lấy làm khó.  Khi Ðức Như-Lai nhập diệt, 500 năm về sau, nếu có người nghe kinh này, mà hiểu ngộ, tin theo và thọ-trì, thì người đó mới là hy-hữu! 

-          Tại sao vậy?  Vì người này không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả. 

-          Bạch Thế-Tôn!  Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng là ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả.  Tại sao vậy?  Vì phải xa lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này tiếp với đoạn trên, nói người có hạt giống trí-huệ Bát-Nhã, phá trừ được bốn tướng, mới tin và hiểu được kinh này. 

       Khi Phật còn tại thế, chúng-sanh căn-tánh Ðại-thừa rất nhiều, nên nghe kinh này hiểu và tin không khó.  Ðến sau khi Phật nhập-diệt, chúng-sanh căn tánh Ðại-thừa rất ít, nên nghe hiểu và tin được kinh này rất khó.  Vì người nghe phải không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ giả, mới hiểu được kinh Kim-Cang Bát-Nhã này. 

       Nói đến bốn tướng, ông Tu-Bồ-Ðề sợ người chấp thật có bốn tướng, nên ông liền bác rằng: “Nói bốn tướng, không phải có thật bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng mà thôi”. 

       Kết-luận, ông nói rằng:  “Phải rời tất cả các vọng chấp, vọng tướng, ngộ nhập Kim-Cang Bát-Nhã, mới gọi là chư Phật”. 

       Ngài Cảo Thiền-sư, ngộ được câu: “Lìa tất cả các vọng chấp, mới là chư Phật”, nên có làm hai bài tụng rằng: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Thân khẩu ý thanh tịnh

               Thị danh Phật xuất thế

               Thân khẩu ý bất tịnh

               Thị danh Phật diệt độ. 

               Tức tâm thị Phật vô dư Pháp

               Mê giả đa ư tâm ngoại cầu

               Nhứt niệm quách nhiên qui bổn tế

               Hoàn như tẩy khước thượng thuyền đầu. 

       Dịch nghĩa: 

               Thân, khẩu, ý thanh tịnh

               Ðó là Phật xuất thế

               Thân, khẩu, ý bất tịnh

               Ðó là Phật nhập diệt. 

               Tức tâm là Phật, Phật tại tâm

               Kẻ mê rong ruổi, ngoại tâm cầu

               Nhứt niệm giác-ngộ về đến Phật

               Dễ như rửa chân bước lên thuyền. 

ÐẠI Ý HAI BÀI TỤNG 

       Ba nghiệp:  thân, miệng và ý đều thanh tịnh, đó là Phật xuất thế.  Trái lại, ba nghiệp không thanh tịnh tức là Phật nhập diệt.  Phật tức là tâm, tâm tức Phật.  Người mê muội không biết, lại tìm Phật ngoài tâm.  Nếu trong nhứt niệm mà tâm được giác ngộ thì tức thành Phật; rất dễ như người rửa chân bước lên thuyền. 

30.    PHẬT XÁC-NHẬN LỜI NÓI CỦA ÔNG TU-BỒ-ÐỀ LÀ PHẢI 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Ðúng vậy.  Nếu có người nghe kinh này mà không nghi-ngờ hay kinh sợ, thì người này rất là hy-hữu. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này vẫn còn tiếp với hai đoạn trên văn trên, Phật xác-nhận lời nói của ông Tu-Bồ-Ðề là phải:  Người có hạt giống Kim-Cang Bát-Nhã, không chấp các tướng mới hiểu và tin được kinh này. 

31.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: “BÁT-NHÃ LÀ ÐỆ-NHỨT BA-LA-MẬT” 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật, không phải Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật, thế mới thật Bát-Nhã đệ nhứt Ba-la-mật. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật phá cái chấp “Bát-Nhã là pháp Ba-la-mật thứ nhứt”.  Ðây là lần thứ hai, Phật phá chấp Bát-Nhã Ba-la-mật (lần thứ nhứt ở đoạn 22). 

       Trong 6 pháp Lục-độ, tức là 6 pháp Ba-la-mật, thì Trí-huệ Bát-Nhã là bao trùm tất cả, nên Phật nói: “Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật”. 

       Nhưng, nếu có người còn chấp mình đặng “Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật” (chấp pháp) thì không phải thật đặng “Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật” nữa, vì còn chấp ngã (mình đặng) chấp pháp (Ba-la-mật).  Bởi thế nên Phật dạy tiếp: “Không còn thấy (chấp) mình đặng Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-la-mật, thì mới thật đặng Bát-Nhã đệ nhứt Ba-la-mật”. 

GIẢI DANH TỪ 

       Bát-Nhã:  (đã giải ở trước, đề-mục kinh).

       Ba-la-mật:  (đã giải ở trước, đề-mục kinh). 

32.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: “NHẪN-NHỤC LÀ BA-LA-MẬT” 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói người Nhẫn-nhục Ba-la-mật (rốt-ráo) mà không thấy mình Nhẫn-nhục Ba-la-mật, như thế mới thật là Nhẫn-nhục Ba-la-mật. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật phá cái chấp “người tu Nhẫn-nhục Ba-la-mật, mà còn chấp mình đặng Nhẫn-nhục Ba-la-mật”. 

       Nếu hành-giả tu hạnh nhẫn-nhục rốt-ráo (Ba-la-mật) mà còn chấp mình tu hạnh nhẫn-nhục rốt-ráo, tức nhiên hành-giả còn chấp chơn (người làm nhục), chấp ngã (ta bị nhục) thì chưa phải là nhẫn-nhục rốt-ráo.  Hành-giả phải lìa tất cả vọng chấp: nhơn, ngã, bỉ, thử v.v… nhập Kim-Cang Bát-Nhã, mà tu pháp nhẫn-nhục, thì pháp nhẫn-nhục đó mới hoàn toàn rốt-ráo, gọi là nhẫn-nhục Ba-la-mật. 

33.    PHẬT NÓI TIỀN THÂN CỦA NGÀI LÀ MỘT VỊ TIÊN-NHƠN TU NHẪN-NHỤC BA-LA-MẬT

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Về quá-khứ, ta làm vị Tiên-nhơn tu hạnh nhẫn-nhục đến 500 đời.  Bị vua Ca-Lợi cắt xẻo thân-thể từng đoạn, nhưng ta không sân hận; vì ta không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này tiếp theo đoạn trên (32) nói về việc tu hạnh nhẫn-nhục Ba-la-mật.  Muốn giải-thích rõ ràng: thế nào là “Nhẫn-nhục rốt ráo” (Nhẫn-nhục Ba-la-mật), Phật dẫn chứng bằng điển-hình, là tiền-thân Ngài làm vị Tiên-nhơn tu hạnh Nhẫn-nhục.  Bị vua Ca-Lợi cắt xẻo thân thể ra từng mảnh, nhưng Ngài không hề sân hận.  Vì Ngài không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn v. v… nên mới đặng Nhẫn-nhục rốt-ráo (Nhẫn-nhục Ba-la-mật). 

       Sách chép, một hôm vua Ca-Lợi dẫn cung phi mỹ nữ lên núi để yến tiệc.  Sau buổi yến tiệc say sưa, vua nằm nghĩ, các cung phi lén vua đi dạo núi. 

       Qua một đồi khác, thấy một vị Tiên-nhơn ngồi tu dưới một gốc cây đại-thọ, các cung phi rũ nhau đến chiêm bái. 

       Sau khi thức dậy, không thấy cung phi, vua liền đi tìm.  Ðến một đồi núi, thấy các cung phi đang ngồi xoay quanh hỏi đạo vị Tiên-nhơn dưới một gốc cây cổ thụ, vua tức giận hỏi: 

-          Người là ai mà dám quyến-rũ cung phi mỹ nữ của ta?

-          Tôi là Tiên-nhơn tu hạnh Nhẫn-nhục rốt ráo.

-          Có thật không?

-          Thật, tôi tu Nhẫn-nhục rốt ráo (Ba-la-mật).  Vua liền rút gươm xẻo mũi, lóc tai, chặt tay v. v… vị Tiên-nhơn, mà không thấy vị Tiên-nhơn có chút gì phản-ứng hay sân hận v. v… 

Sau cơn nóng giận, vua hối-hận và hỏi: 

-          Có lẽ vì thế lực của nhà Vua nên Tiên-nhơn Nhẫn-nhục, không dám chống lại, chứ trong tâm làm sao khỏi buồn giận? 

Tiên-nhơn thề rằng:  Nếu tôi không thiệt tu Nhẫn-nhục rốt-ráo, trong tâm còn chút giận hờn, thì tôi chết luôn theo với tay chân bị cắt xẻo; trái lại, nếu tôi thật tu Nhẫn-nhục rốt-ráo, tâm không sân hận, thì tay chân của tôi bị cắt, đều hoàn y-nguyên trở lại như xưa.

       Lời thệ của Tiên-nhơn vừa dứt, thì mũi, tai thân thể của Tiên-nhơn đều hoàn lại như trước.  Vua hết sức ăn-năn sám-hối tội lỗi của mình và thỉnh cầu Tiên-nhơn tha thứ. 

       Tiên-nhơn đã không hờn giận, lại còn phát nguyện: “Sau khi đắc đạo, ta sẽ độ người trước”. 

34.    BỒ-TÁT PHÁT TÂM BỒ-ÐỀ PHẢI XA-LÌA TẤT CẢ CÁC VỌNG CHẤP 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, phải xa-lìa tất cả các chấp tướng.  Bồ-tát không nên sanh tâm trụ-chấp nơi sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vi-trần, xúc-trần và pháp-trần v. v… 

-          Nói tóm lại, Bồ-tát đừng sanh vọng tâm trụ-chấp một nơi nào cả.  Nếu Bồ-tát tâm còn trụ-chấp một nơi nào, thì không phải thật an trụ chơn-tâm. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 17), Phật dạy các vị Bồ-tát đừng sanh vọng-tâm trụ chấp một nơi nào. 

       Tâm Bồ-đề là tâm Phật (xem đoạn 2).  Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, phải xa lìa tất cả các vô-minh vọng chấp:  Không chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng-sanh, thọ-giả, không chấp 6 căn, 6 trần và 6 thức v.v… nói chung là không chấp ngã chấp pháp. 

       Khi các vọng chấp hết rồi, thi tâm Bồ-đề hay tánh Bát-Nhã v.v… hiện ra.  Ðó là “hàng-phục vọng-tâm và an-trụ chơn-tâm”. 

       Nếu tâm còn có chỗ trụ-chấp, tức là tâm còn vọng-động; tâm còn vọng-động thì trụ nơi điên-đảo, chứ không phải an trụ chơn-tâm hay tánh Bát-Nhã.  Bởi thế nên Phật dạy: “Nếu Bồ-tát tâm còn trụ chấp một nơi nào, thì không phải thật an trụ chơn-tâm”. 

       Ngài Xuyên Thiền-sư làm bài tụng, nói về việc không trụ chấp nơi sắc, thinh, hương v.v… 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Kiến sắc phi can sắc

               Văn thinh bất thị thinh

               Sắc thinh vô ngại xứ

               Thân đáo pháp-vương thành. 

       Dịch nghĩa: 

               Thấy sắc không mê sắc

               Nghe tiếng chẳng nhiễm tiếng

               Sắc tiếng đều không ngại

               Mới đến Pháp-vương thành. 

ÐẠI Ý BÀI TỤNG 

       Trong khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu trần cảnh, mà không khởi vọng niệm phân biệt, nhiễm ô mê hoặc (trụ chấp) nơi trần cảnh, thì hành-giả sẽ được vào cảnh giới Phật (thành Pháp-vương). 

35.    BỒ-TÁT BỐ-THÍ HAY LÀM CÁC VIỆC LỢI-ÍCH CHÚNG SANH ÐỀU KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Bồ-tát khi bố-thí hay làm các việc lợi-ích cho tất cả chúng-sanh, không nên sanh tâm trụ-chấp các tướng (mình bố-thí, ngưòi thọ thí, vật bố-thí). 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói các tướng không phải thật các tướng (các pháp) chỉ giả gọi các tướng.  Như-Lai nói chúng-sanh, không phải thật chúng-sanh, chỉ giả gọi chúng-sanh. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ hai (lần thức nhứt về đoạn 4).  Phật dạy các vị Bồ-tát bố-thí hay làm các việc lợi-ích chúng-sanh, đều không nên chấp tướng (xem đoạn 4 ở trước). 

       Hành-giả khi làm lợi-ích các chúng-sanh, mà tâm còn trụ chấp các tướng, nghĩa là còn thấy mình bố-thí, người thọ thí và vật bố-thí, tất nhiên hành-giả còn chấp ngã (mình, người), chấp pháp (vật bố-thí), thì hành-giả chỉ được phước báu hữu-lậu nhiễm-ô, nên không phải là bố-thí Ba-la-mật (bố-thí rốt-ráo).

       Bởi thế nên Phật dạy các vị Bồ-tát, khi bố-thí hay làm lợi-ích cho các chúng-sanh, phải nhập Kim-Cang Bát-Nhã mà làm; nghĩa là không có chấp các tướng; ngã, nhơn, chúng-sanh, thọ-giả thì được phước-đức vô-lậu thanh-tịnh.  Bố-thí như vậy, mới phải là bố-thí Ba-la-mật (bố-thí rốt-ráo). 

       Ðoạn trước nói về Nhẫn-nhục, đoạn này nói về bố-thí.  Muốn giúp cho quí vị Phật-tử hiểu thêm và để thật hành, thế nào là “nhẫn-nhục rốt-ráo” và thế nào là “bố-thí rốt-ráo”, chúng tôi xin nói thêm một thí dụ như sau. 

       Hành-giả muốn đặng Nhẫn-nhục Ba-la-mật hay bố-thí Ba-la-mật, thì phải quán chúng-sanh và mình đồng một bản-thể, mới không thấy ta có bố-thí và chúng-sanh thọ thí, hay người làm nhục và ta thọ nhục. 

       Thí dụ như tay mặt với tay trái, đồng thấy chúng một thân, nên khi tay mặt lỡi làm tổn thương tay trái, (đóng đinh trợt tay) tay trái không giận.  Vì tay trái tự nhận mình cùng với tay mặt đồng một thân, nên tay trái không thấy có tay mặt làm nhục và mình bị nhục.  Nhẫn-nhục như thế mới là Nhẫn-nhục rốt-ráo (Nhẫn-nhục Ba-la-mật). 

       Trái lại, tay mặt lo lấy bông gòn và thuốc để băng bó cho tay trái, nhưng nó không kiêu hảnh, vì tay mặt cũng tự nhận mình cùng với tay trái đồng một thân, nên nó không thấy mình (tay mặt) là người ban ơn và tay trái là kẻ thọ ơn.  Bố-thí như thế, mới là bố-thí rốt-ráo (Bố-thí Ba-la-mật). 

36.    NHƯ-LAI NÓI THẬT, KHÔNG NÓI DỐI 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói thật, nói chơn-chánh, không nói dối, không nói sai khác.  Như-Lai có đắc pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðến thời Bát-Nhã, thì Phật phá hết các vọng chấp từ lâu của chúng-sanh, để chúng-sanh tiến lên một bực cao hơn nữa.  Vi thế nên về phần lý thuyết cũng như phần tinh-thần của thời kinh Bát-Nhã, rất lạ-lùng hơn các thời thuyết pháp khác. 

       Sợ chúng-sanh nghi-ngờ lời Phật nói không chơn thật, khi nói vầy, khi nói khác, thay đổi không chừng, nên Phật gọi ông Tu-Bồ-Ðề dạy rằng:  “Như-Lai nói thật, nói chơn chánh, không nói dối, không nói sai khác”. 

       Ðức Như-Lai được đạo Bồ-đề, nhưng nếu chấp đạo Bồ-đề này là hư hay là thật thì không phải là Bồ-đề.  Vì thế nên Phật dạy:  “Như-Lai có đắc pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư”.

37.    CHẤP TƯỚNG BỐ-THÍ NHƯ VÀO NHÀ TỐI, VÔ-TƯỚNG BỐ-THÍ NHƯ ÐI BAN NGÀY 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu Bồ-tát bố-thí mà tâm còn trụ chấp nơi pháp bố-thí, thì như người vào tối, không thấy gì cả.  Trái lại, nếu Bồ-tát bố-thí mà tâm không trụ chấp nơi pháp bố-thí, thì cũng như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt nhựt chiếu soi, được thấy tất cả mọi vật. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ ba (lần thứ nhứt và hai ở đoạn 4 và 35), Phật dạy Bồ-tát bố-thí không nên chấp tướng bố-thí. 

       Người bố-thí, nếu còn chấp tướng, nghĩa là còn thấy ta là người ban ơn, kia là kẻ thọ ơn, đó là vật bố-thí, thì bị mây vô-minh ngã, pháp che mờ trí-huệ Bát-Nhã, nên Phật thí dụ: “Như người đi vào nhà tối không thấy gì cả”. 

       Trái lại, nếu bố-thí mà không chấp tướng, trong kinh gọi là “tam luân không tịch”; nghĩa là không thấy mình bố-thí (ban ơn), người thọ thí (thọ ơn) và vật bố-thí (xem thí dụ tay mặt bó tay trái trái ở đoạn 35) thì mây vô-minh ngã, pháp đều hết, nên mặt trời trí-huệ Bát-Nhã hiện ra, chiếu soi khắp tất cả các pháp.  Bởi thế nên Phật nói: “Như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt nhựt chiếu soi, được thấy mọi vật”.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ XII)
07 - PHẦN CHÁNH TÔN (TIẾP THEO)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712