Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

05 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)

BÀI THỨ NĂM

PHẦN CHÁNH TÔN (tiếp theo) 

19.    THỌ TRÌ KINH NÀY PHƯỚC ÐỨC VÔ LƯỢNG 

Phật hỏi:

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như trong sông Hằng, có vô số cát, rồi lấy mỗi một hạt cát, lại dụ cho một sông Hằng.  Vậy những số cát trong vô số sông Hằng đó, có nhiều không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Nhiều lắm.  Nếu chỉ tính những sông Hằng mà thôi, hãy còn nhiều vô số, huống chi là tính tất cả số cát, trong vô số sông Hằng. 

Phật hỏi tiếp: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có chúng-sanh nào dùng 7 món báu, đựng đầy trong nhiều Ðại thế-giới (một nghìn triệu thế-giới nhỏ) để đem bố-thí; số đại thế-giới này cũng nhiều như số cát sông Hằng, thì chúng-sanh đó phước đức nhiều không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Nhiều lắm. 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Ta nay thành thật bảo ông:  Nếu có người thọ trì đọc tụng hay giảng kinh này, hoặc trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu, chừng bốn câu kệ, thì phước đức của người này nhiều hơn người trước. 

LƯỢC GIẢỊ 

       Ðoạn này Phật nói công-đức người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này (thí pháp) nhiều hơn công-đức người bố-thí thất bửu (thí tài) đựng đầy vô số đại thế-giới, nhiều như số cát trong vô số sông Hằng.  Ðây là lần thứ bà, Phật tán thán về công-đức thọ trì kinh. 

       Ngọc ngà châu báu, không ai có nhiều được.  Nhưng nếu có người, có nhiều châu báu, đựng đầy trong vô số đại thế-giới, đem bố-thí, thì phước đức người này không thể nghĩ bàn. 

       Nhưng, nếu có người thọ tri hay giảng dạy kinh này, hoặc trọn quyển hay nửa quyển, hoặc tối thiểu là bốn câu kệ, thì công-đức của người sau này nhiều hơn người trước. 

       Vì bố-thí về châu báu, dầu nhiều đến đâu, cũng chỉ giúp đỡ cho người về phương diện vật chất, giàu sang, sung sướng nhứt thời mà thôi, chứ không thể đem hạnh-phúc vĩnh viễn cho người được.

       Còn người thọ-trì hoặc giảng dạy kinh này, tuy ít và dễ làm, nhưng thuộc về pháp thí, giúp cho người về phương diện tinh thần, có ảnh-hưởng sâu rộng hơn.  Mình và người đều được trồng hạt giống Bát-Nhã, một ngày sau, không sớm thì chầy, thế nào cũng được nứt một nảy chồi, đơm bông kết quả, sẽ được thành Phật, rồi hóa độ vô số chúng-sanh cũng sẽ thành Phật.  Bởi vì người trì kinh và bố-thí pháp, thuộc về phước vô-lậu thanh-tịnh, nên phước đức nhiều hơn người bố-thí vật chất. 

       Tóm tắt đoạn này, Ngài Phó Ðại-sĩ có làm bài tụng như sau: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Bảo mãn tam thiên giới

               Tê trì tác phước điền

               Duy thành hữu-lậu nghiệp

               Chung bất ly nhơn thiên

               Trì kinh thủ tứ cú

               Dữ Phật tác lương duyên

               Dục nhập vô-vi hải

               Tu thừa Bát-Nhã thuyền. 

       Dịch nghĩa: 

               Ðựng báu đầy Ðại-thiên

               Bố-thí trồng ruộng phước

               Chỉ thành nghiệp hữu-lậu

               Hưởng phước cõi nhơn thiên

               Tri tụng bốn câu kệ

               Tạo duyên lành với Phật

               Muốn vào biển vô-vi

               Phải nương thuyền Bát-Nhã. 

ÐẠI Ý 

       Bài tụng này nói, của báu đựng đầy Ðại thế-giới (một nghìn triệu thế-giới nhỏ) đem bố-thí làm phước, hành-giả chỉ hưởng phước hữu-lậu của cõi nhơn thiên.  Không bằng người trì tụng bốn câu kệ, để gieo duyên lành với Phật, đặng nương nhờ thuyền Bát-Nhã, dạo chơi biển vô-vi, hưởng phước vui vĩnh-viễn. 

GIẢI DANH TỪ 

       Sông Hằng:  Tên một con sông bên Ấn-độ.  Dài rộng và rất nhiều cát.  Mỗi khi Phật thuyết pháp, muốn chỉ những cái gì nhiều không thể tính được, thì Phật thí-dụ “như số cát sông Hằng” (Hằng hà sa số). 

       Ðại thế-giới:  Nguyên văn chữ Hán là “Tam thiên đại thiên thế-giới”, gọi tắt là “Ðại thế-giới”. 

       Nhơn lên 3 lần ngàn, là một đại thiên thế-giới.  Nghĩa là năm châu thế-giới của chúng ta ở đây là một thế-giới nhỏ; nhơn lên 1.000 thế-giới nhỏ gọi là “Tiểu thiên thế-giới”; nhơn lên 1.000 tiểu thiên thế-giới, gọi là “Trung thiên thế-giới”; nhơn lên 1.000 Trung thiên thế-giới, gọi là “Ðại thiên thế-giới”; tức là một nghìn triệu thế-giới nhỏ, gọi là một “Ðại thiên thế-giới”.  Thế-giới Ta-bà là “một đại thiên thế-giới”.  Ngoài thế-giới Ta-bà còn hằng hà sa số đại thiên thế-giới. 

20.    CÔNG-ÐỨC CỦA KINH KIM-CANG BÁT-NHà

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Những chỗ được giảng kinh này, hoặc trọn bộ hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì chỗ đó cũng được chư thiên, người và thánh thần đến cúng-dường và đều kính trọng như chỗ chùa tháp của Phật. 

Phật dạy tiếp: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu chỗ nào thờ kinh này, thì chỗ đó có Phật và có các vị đệ-tử tôn quí của Phật.  Bởi thế nên người chí thành thọ-trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ được thành tựu trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn nầy tiếp theo đoạn trên, nói về công-đức quí báu của kinh và khuyên người thọ trì kinh nầy.  Ðây là lần thứ tư.

       Ðoạn trước (đoạn 13) Phật dạy:  “… tất cả Phật và Pháp đều từ kinh này mà sanh ra”.  Bởi thế nên chỗ giảng kinh này và chỗ thờ kinh nầy, thì chỗ đó như chứa Phật hay tháp Phật, có Phật có đệ-tử tôn quí của Phật; thánh, thần, trời, người đều kính trọng và cúng-dường. 

       Vì kinh nầy quí báu như vậy, nên người chí thành thọ-trì kinh nầy sẽ được trí-huệ Phật (Kim-Cang Bát-Nhã). 

21.    ÔNG TU-BỒ-ÐỀ HỎI PHẬT TÊN KINH 

Lúc bấy giờ, ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Kinh nầy tên gì?  Và tại sao chúng con phải phụng trì? 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Kinh nầy tên là “KIM-CANG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT”; vì thế nên các ông phải phụng trì. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðến đây, ông Tu-Bồ-Ðề thỉnh Phật xác-định tên kinh và giải-thích, tại sao phải phụng trì?  Phật trả lời: Kinh nầy tên “Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật” (nghĩa đã giải ở đề mục kinh).  Vì “Kim-Cang Bát-Nhã”, nên các ông phải phụng tri. 

22.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “KINH KIM-CANG BÁT-NHÔ 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói Bát-Nhã Ba-La-Mật, tức không phải Bát-Nhã Ba-La-Mật, thế mới gọi là Bát-Nhã Ba-La-Mật. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn nầy Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp về kinh “Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật”.  Nếu hành-giả còn vọng chấp “có kinh Bát-Nhã và có ta phụng trì”, tức là hành-giả còn chấp ngã (ta phụng trì) và chấp pháp (kinh Bát-Nhã) thì không phải là kinh Bát-Nhã và thọ-trì Bát-Nhã.  Phải dẹp trừ hết các vọng chấp ngã, pháp v.v… mới phải là thọ-trì kinh Bát-Nhã. 

       Bởi thế nên, Phật vừa nói ra tên kinh, sợ chúng-sanh chấp tên kinh, nên Phật liền phá chấp: “Như-Lai nói Bát-Nhã Ba-La-Mật, không phải Bát-Nhã Ba-La-Mật, thế mới thật là Bát-Nhã Ba-La-Mật”.

23.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI CÓ THUYẾT PHÁP” 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai có thuyết pháp không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Như-Lai không có thuyết pháp. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ hai, Phật phá cái chấp: “Như-Lai có thuyết pháp” (lần thứ nhứt ở đoạn 11). 

       Tiếp theo đoạn trên, ông Tu-Bồ-Ðề hỏi kinh nầy tên gì?  -  Phật nói kinh nầy tên là “Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật”.  Sợ người chấp:  “Như thế thì Phật có nói pháp Bát-Nhã”, nên tiếp đến đoạn nầy, Phật phá luôn cái chấp:  “Phật có thuyết pháp”. 

       Nếu hành-giả còn vọng chấp: “Phật có thuyết pháp”, thì không nhập được “Kim-Cang Bát-Nhã”.  Vì ông Tu-Bồ-Ðề đã nhập được lý “Kim-Cang Bát-Nhã”, nên ông trả lời: “Như-Lai không có thuyết pháp”. 

       Muốn cho độc-giả rõ thêm đoạn nầy, tôi xin nhắc lại lời giải-thích ở đoạn trước thêm một lần nữa:  Một hôm ông Tu-Bồ-Ðề ngồi yên tịnh dưới gốc cây.  Trời Ðế-Thích rưới hoa cúng-dường.  Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi:  “Ai rưới hoa?”  Trời Ðế-Thích thưa:  “Ngài thuyết kinh Bát-Nhã hay quá!  Con xin dâng hoa cúng-dường”. 

       Ông Tu-Bồ-Ð ề nói:  “Tôi không nói kinh Bát-Nhã”.  Trời Ðế-Thích thưa:  “Ngài không nói Bát-Nhã, con không nghe Bát-Nhã”. 

       Kết-luận:  “không nói Bát-Nhã và không nghe Bát-Nhã”, như thế mới thật là “nói Bát-Nhã và nghe Bát-Nhã”. 

       Vì ngộ được lý chơn-không của kinh Bát-Nhã, nên ngài Viên-Ngộ Thiền-sư có làm bài kệ rằng: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Thập phương đồng tụ hội

               Có cá học vô vi

               Thử thị tuyển Phật trường

               Tâm không cập đệ qui. 

       Dịch nghĩa: 

               Mười phương đồng tụ hội

               Người người học vô vi

               Ðây là trường thi Phật

               “Tâm không” mới được đậu. 

ÐẠI Ý 

       Bài kệ nầy quan-trọng nhứt là hai chữ “Tâm không”.  Nếu người nào tâm không còn các phiền-não vọng chấp ngã, pháp v.v… thì người đó nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, tức là đậu quả Phật. 

24.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “THẬT CÓ VI-TRẦN VÀ THẾ-GIỚI” 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Những vi-trần chứa trong đại thế-giới (1 nghìn triệu thế-giới nhỏ) có nhiều không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Nhiều lắm. 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói các vi-trần, không phải thật vi-trần, chỉ tạm gọi là vi-trần, Như-Lai nói thế-giới không phải thật thế-giới, chỉ tạm gọi là thế-giới. 

LƯỢC GIẢỊ 

       Ðoạn nầy Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp “thật có vi-trần và thật có thế-giới”. 

       Phật đã dạy:  “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”; nghĩa là phàm cái gì có hình tướng, đều là hư dối không thật.  Tất cả muôn vật trong vũ-trụ, lớn như thế-giới, nhở như vi-trần, cũng đều hư giả không thật. 

       Do hiệp nhiều vi-trần (bụi nhỏ) thành ra một vật lớn nhứt, rồi tạm đặt tên là thế-giới. 

       Trái lại, do vật lớn nhứt như thế-giới, chẻ cho đến thật nhỏ, không còn chẻ được nữa, rồi tạm đặt tên là vi-trần (bụi nhỏ).  Vậy thế-giới hay vi-trần, cùng các vật khác, đều do vọng thức của chúng-sanh, phân biệt so-đo (kế đạt phân biệt) rồi đặt tên như thế nầy hay thế khác, chứ không có thật thể. 

       Trong bộ Cu-xá luận tụng lược thích, về trang 210, có chép về vi-trần và thế-giới, đại ý như sau:  Từ vật lớn nhứt là thế-giới, rồi chẻ nhỏ thế-giới ra nhiều lần, cho đến thành hột bụi bay qua lại các kẻ hở (như mỗi buổi sáng, mặt trời chiếu vào các kẻ hở, chúng ta thấy rất nhiều bụi bay qua lại).  Các thứ bụi nầy gọi tên là: 

1.      Khích-du-trần:  bụi bay qua các kẻ hởi.

2.      Ngưu-mao-đầu-trần:  Hạt bụi nhỏ ở trên đầu lông con trâu.  Bụi nầy do chẻ nhỏ bụi “khích-du” mà thành.

3.      Dương-mao-đầu-trần:  Thứ bụi nầy ở trên đầu lông con dê.  Thứ bụi nầy do chẻ nhỏ bụi “ngưu-mao-đầu” mà thành.

4.      Thố-mao-đầu-trần:  Hạt bụi ở trên đầu lông con thỏ.  Thứ bụi nầy do chẻ nhỏ bụi “dương-mao-đầu” mà thành.

5.      Thủy-trần:  Bụi rớt trong nước không ướt, vì quá nhỏ.  Thứ bụi nầy do chẻ nhỏ bụi “thố-mao-đầu” mà thành.

6.      Kim-trần:  Bụi nầy có thể lọt qua những vàng khối hay sắt dầy hoặc kiến dầy; do chẻ nhỏ bụi “thủy trần” mà thành.

7.      Vi-trần:  Bụi nhỏ; do chẻ nhỏ bụi “kim-trần” mà thành.

8.      Cực-vi-trần:  Bụi rất nhỏ.  Hạt bụi nầy do chẻ nhỏ bụi “vi-trần” mà thành.

9.      Lân-hư-trần:  Bụi gần mé hư-không.  Thứ bụi nầy nhỏ nhứt, không thể chẻ nhỏ nữa được, nếu chẻ nữa thì thành hư-không.  Bụi nầy do chẻ bụi “cực-vi-trần” mà thành.  

Rồi trở lại, từ vật nhỏ như “Lân-hư-trần”

tích tụ 7 Lân-hư-trần thành một “Cực-vi-trần”

…… 7 Cực-vị-trần ………... “Vi-trần”

…… 7 Vi-trần  ……………. “Kim-trần”

…… 7 Kim-trần  ………….. “Thủy-trần”

…… 7 Thủy-trần ………….. “Thố-mao-đầu-trần”             

…… 7 Thố-mao đầu trần ….. “Dương-mao-đầu-trần”

…… 7 Dương-mao-đầu-trần  thành một “Ngưu-mao-đầu-trần”

…… 7 Ngưu-mao-đầu-trần thành một “Khích-du-trần” 

       Cứ tích-tụ mãi mãi như vậy, thành những vật nhỏ, đến vật lớn, cho đến vật lớn nhứt là “Thế-giới” 

       Tóm lại, chứa nhiều vi-trần thành thế-giới; chẻ nhỏ thế-giớ thành ra vi-trần.  Vi-trần và thế-giới đều do sự đối-đãi lớn với nhỏ, mà đặt ra cái tên để kêu gọi, chớ không có cái gì là chơn thật. 

       Ngài Phó Ðại-sĩ làm bài tụng, nói về vi-trần và thế-giới. 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Tích trần thành thế-giới

               Chiết giới tác vi-trần

               Giới dụ nhơn thiên quả

               Trần vi hữu lậu nhơn

               Trần nhơn, nhơn bất thật

               Giới quả, quả phi nhơn

               Quả nhơn tri thị quyển

               Tiêu diêu tự tại nhơn

               Vọng kế nhơn thành chấp

               Mê thằng vị thị xà

               Tâm nghi sanh ám quỉ

               Nhãn bịnh kiến không hoa

               Tam nhơn nãi kiến sai

               Liễu tư danh bất thật

               Trường ngự bạch ngưu xa. 

       Dịch nghĩa: 

               Chứa trần thành thế-giới

               Chẻ giới hóa vi-trần

               Giới dụ quả nhơn-thiên

               Trần là nhơn hữu lậu

               Trần nhơn, nhơn không thật

               Giới quả, quả chẳng nhơn

               Biết quả, nhơn đều huyễn

               Ðược tự tại tiêu diêu

               Vọng thấy dây thành rắn

               Chấp mê bởi tại tâm

               Tâm sợ nên ma hiện

               Mắt nhặm thấy đốm hoa

               Một cảnh không sai khác

               Ba người thấy chẳng đồng

               Ai biết đó là huyễn

               Tức là bực đại giác. 

ÐẠI Ý 

       Bài tụng thứ nhứt nói:  chứa vi-trần thành thế-giới, chẻ thế-giới thành vi-trần.  Thế-giới dụ cho quả nhơn-thiên, vi-trần là dụ cho nhơn hữu-lậu.  Nhơn vi-trần đã không thật, nên quả thế-giới cũng hư vọng.  Nếu người biết được nhơn quả đều như huyễn, thì sẽ được tiêu-diêu tự-tại. 

       Tiếp đến bài tụng thứ hai, đại ý nói:  Vì tánh “Biến-kế-sở-chấp”, nên chấp sợi dây là con rắn, ban đêm thấy bóng tối cho là ma; cũng như vì con mắt bị nhặm, nên thấy có hoa đốm giữa hư-không.  Cũng một cảnh không sai khác, nhưng ba người (biến kế-sở-chấp, y-tha-khởi và viên-thành-thật) thấy chẳng đồng.  Nếu người được giác-ngộ như Phật, mới biết đó là giả danh không thật. 

25.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “THẤY 32 TƯỚNG TỐ CỦA PHẬT LÀ THẤY PHẬT” 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Ông có thể cho thấy 32 tướng tốt của Như-Lai là thấy được Như-Lai không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Không thể được.  Tại sao vậy?  Vì Ðức Như-Lai nói 32 tướng tốt, không phải thật 32 tướng tốt, chỉ giả gọi là 32 tướng tốt. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn trên (24) Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá chấp về y-báo (chấp pháp) là vi-trần và thế-giới.  Ðoạn nầy Phật lại dùng trí-huệ Bát-Nhã phá chấp về chánh-báo (chấp ngã); nghĩa là chấp “thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật”.  Ðây là lần thứ 2 (lần thứ nhứt ở đoạn thứ 7) Phật phá chấp về thấy Phật. 

       Nếu còn chấp “thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật”, tức là còn chấp ngã (ta thấy) chấp nhơn (Phật) v.v… thì không nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, nên không thấy được Phật thiệt. 

       Ngài Phó Ðại-sĩ làm bài tụng, nói về việc phá các vọng chấp ngã, nhơn, năng, sở v.v… 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Tảo trừ tâm ý địa

               Danh vi Tịnh-độ nhơn

               Vô luận phước dữ trí

               Quang thả ly tham sân

               Trang-nghiêm tuyệt năng sở

               Vô ngã diệc vô nhơn

               Ðoạn, thường cu bất nhiễm

               Tần thoát xuất hồng trần. 

       Dịch nghĩa: 

               Quét sạch đất tâm ý

               Ðó là nhơn Tịnh-độ

               Không cần tu phước huệ

               Miền bỏ được tham sân

               Trang nghiêm không năng sở

               Không ngã cũng không nhơn

               Ðoạn, thường đều chẳng nhiễm

               Siêu xuất cõi hồng-trần. 

ÐẠI Ý HAI BÀI TỤNG 

       Không cần tu phước huệ hay phương pháp nào khác, chỉ quyét sạch tham, sân, si v.v… ở trong tâm địa của mình, đó là nhơn để vãng-sanh về Tịnh-độ. 

       Dẹp trừ các vọng chấp: năng, sở, nhơn, ngã, đoạn, thường v.v… thì được siêu thoát cõi hồng-trần, đó là trang-nghiêm cõi Phật 

GIẢI DANH TỪ 

       32 Tướng tốt:  Phật có 32 tướng tốt. 

1.      Dưới bàn chân no tròn.

2.      Dưới bàn chân có cả ngàn khu ốc.

3.      Tay chân mềm dịu.

4.      Ngón chân có màn như chân nhạn.

5.      Ngón tay ngón chân no tròn.

6.      Gót xứng với bàn chân.

7.      Bàn chân xứng với gót.

8.      Hai chân tròn vót như hai chân nai.

9.      Tay dài thòng tới đầu gối.

10. Âm tướng quí tàng.

11. Chân lông ửng màu xanh tía.

12. Tóc lông đều xoay qua phía mặt.

13. Da trơn mịn không dính dơ.

14. Màu da sắc vàng.

15. Tay chân vai cổ, bảy chỗ đều đủ.

16. Cổ tròn lạ thường.

17. Hai cái nách no đủ.

18. Dung nghi đoan chánh.

19. Thân tướng trang-nghiêm.

20. Hình thể xứng nhau.

21. Oai dung như sư-tử.

22. Chói hào-quang mỗi phía một lần.

23. Hàm răng 40 cái khít và bằng.

24. Bốn răng cấm trắng và bén.

25. Trong miệng có mùi thơm.

26. Lưỡi dài che đặng cả cái mặt.

27. Tiếng nói dịu dàng đủ giọng.

28. Lông nheo như ngưu vương.

29. Con mắt có quần đỏ.

30. Mặt như trăng tròn.

31. Chỗ gian-mi có lông trắng.

32. Trên đầu lồi thịt lên, như đầu tóc.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ XII)
06 - PHẦN CHÁNH TÔN (TIẾP THEO)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712