BÀI THỨ
NĂM
PHẦN CHÁNH TÔN (tiếp theo)
19. THỌ TRÌ KINH NÀY PHƯỚC ÐỨC VÔ LƯỢNG
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như trong sông Hằng, có vô số cát, rồi lấy mỗi một hạt cát, lại
dụ cho một sông Hằng. Vậy những số cát trong vô số sông Hằng đó, có nhiều
không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Nhiều lắm. Nếu chỉ tính những sông Hằng mà thôi, hãy còn
nhiều vô số, huống chi là tính tất cả số cát, trong vô số sông Hằng.
Phật hỏi tiếp:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu có chúng-sanh nào dùng 7 món báu, đựng đầy trong nhiều Ðại thế-giới
(một nghìn triệu thế-giới nhỏ) để đem bố-thí; số đại thế-giới này cũng nhiều như
số cát sông Hằng, thì chúng-sanh đó phước đức nhiều không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Nhiều lắm.
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Ta nay thành thật bảo ông: Nếu có người thọ trì đọc tụng hay
giảng kinh này, hoặc trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu, chừng bốn câu
kệ, thì phước đức của người này nhiều hơn người trước.
LƯỢC GIẢỊ
Ðoạn này Phật nói công-đức người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này (thí pháp) nhiều
hơn công-đức người bố-thí thất bửu (thí tài) đựng đầy vô số đại thế-giới, nhiều
như số cát trong vô số sông Hằng. Ðây là lần thứ bà, Phật tán thán về công-đức
thọ trì kinh.
Ngọc ngà châu báu, không ai có nhiều được. Nhưng nếu có người, có nhiều châu
báu, đựng đầy trong vô số đại thế-giới, đem bố-thí, thì phước đức người này không
thể nghĩ bàn.
Nhưng, nếu có người thọ tri hay giảng dạy kinh này, hoặc trọn quyển hay nửa quyển,
hoặc tối thiểu là bốn câu kệ, thì công-đức của người sau này nhiều hơn người trước.
Vì bố-thí về châu báu, dầu nhiều đến đâu, cũng chỉ giúp đỡ cho người về phương diện
vật chất, giàu sang, sung sướng nhứt thời mà thôi, chứ không thể đem hạnh-phúc vĩnh
viễn cho người được.
Còn người thọ-trì hoặc giảng dạy kinh này, tuy ít và dễ làm, nhưng thuộc về pháp
thí, giúp cho người về phương diện tinh thần, có ảnh-hưởng sâu rộng hơn. Mình
và người đều được trồng hạt giống Bát-Nhã, một ngày sau, không sớm thì chầy, thế
nào cũng được nứt một nảy chồi, đơm bông kết quả, sẽ được thành Phật, rồi hóa độ
vô số chúng-sanh cũng sẽ thành Phật. Bởi vì người trì kinh và bố-thí pháp,
thuộc về phước vô-lậu thanh-tịnh, nên phước đức nhiều hơn người bố-thí vật chất.
Tóm tắt đoạn này, Ngài Phó Ðại-sĩ có làm bài tụng như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
Bảo mãn tam thiên giới
Tê trì tác phước điền
Duy thành hữu-lậu nghiệp
Chung bất ly nhơn thiên
Trì kinh thủ tứ cú
Dữ Phật tác lương duyên
Dục nhập vô-vi hải
Tu thừa Bát-Nhã thuyền.
Dịch nghĩa:
Ðựng báu đầy Ðại-thiên
Bố-thí trồng ruộng phước
Chỉ thành nghiệp hữu-lậu
Hưởng phước cõi nhơn thiên
Tri tụng bốn câu kệ
Tạo duyên lành với Phật
Muốn vào biển vô-vi
Phải nương thuyền Bát-Nhã.
ÐẠI Ý
Bài tụng này nói, của báu đựng đầy Ðại thế-giới (một nghìn triệu thế-giới nhỏ) đem
bố-thí làm phước, hành-giả chỉ hưởng phước hữu-lậu của cõi nhơn thiên. Không
bằng người trì tụng bốn câu kệ, để gieo duyên lành với Phật, đặng nương nhờ thuyền
Bát-Nhã, dạo chơi biển vô-vi, hưởng phước vui vĩnh-viễn.
GIẢI DANH TỪ
Sông Hằng: Tên một con sông
bên Ấn-độ. Dài rộng và rất nhiều cát. Mỗi khi Phật thuyết pháp, muốn
chỉ những cái gì nhiều không thể tính được, thì Phật thí-dụ “như số cát sông Hằng”
(Hằng hà sa số).
Ðại thế-giới: Nguyên văn chữ
Hán là “Tam thiên đại thiên thế-giới”, gọi tắt là “Ðại thế-giới”.
Nhơn lên 3 lần ngàn, là một đại thiên thế-giới. Nghĩa là năm châu thế-giới
của chúng ta ở đây là một thế-giới nhỏ; nhơn lên 1.000 thế-giới nhỏ gọi là “Tiểu
thiên thế-giới”; nhơn lên 1.000 tiểu thiên thế-giới, gọi là “Trung thiên thế-giới”;
nhơn lên 1.000 Trung thiên thế-giới, gọi là “Ðại thiên thế-giới”; tức là một nghìn
triệu thế-giới nhỏ, gọi là một “Ðại thiên thế-giới”. Thế-giới Ta-bà là “một
đại thiên thế-giới”. Ngoài thế-giới Ta-bà còn hằng hà sa số đại thiên thế-giới.
20. CÔNG-ÐỨC CỦA KINH KIM-CANG BÁT-NHÃ
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Những chỗ được giảng kinh này, hoặc trọn bộ hay nửa quyển, cho đến
tối thiểu là bốn câu kệ, thì chỗ đó cũng được chư thiên, người và thánh thần đến
cúng-dường và đều kính trọng như chỗ chùa tháp của Phật.
Phật dạy tiếp:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu chỗ nào thờ kinh này, thì chỗ đó có Phật và có các vị đệ-tử
tôn quí của Phật. Bởi thế nên người chí thành thọ-trì đọc tụng kinh này, người
ấy sẽ được thành tựu trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn nầy tiếp theo đoạn trên, nói về công-đức quí báu của kinh và khuyên người thọ
trì kinh nầy. Ðây là lần thứ tư.
Ðoạn trước (đoạn 13) Phật dạy: “… tất cả Phật và Pháp đều từ kinh này mà sanh
ra”. Bởi thế nên chỗ giảng kinh này và chỗ thờ kinh nầy, thì chỗ đó như chứa
Phật hay tháp Phật, có Phật có đệ-tử tôn quí của Phật; thánh, thần, trời, người
đều kính trọng và cúng-dường.
Vì kinh nầy quí báu như vậy, nên người chí thành thọ-trì kinh nầy sẽ được trí-huệ
Phật (Kim-Cang Bát-Nhã).
21. ÔNG TU-BỒ-ÐỀ HỎI PHẬT TÊN KINH
Lúc bấy giờ,
ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật:
-
Bạch Thế-Tôn! Kinh nầy tên gì? Và tại sao chúng con phải phụng trì?
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Kinh nầy tên là “KIM-CANG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT”; vì thế nên các ông
phải phụng trì.
LƯỢC GIẢI
Ðến đây, ông Tu-Bồ-Ðề thỉnh Phật xác-định tên kinh và giải-thích, tại sao phải phụng
trì? Phật trả lời: Kinh nầy tên “Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật” (nghĩa đã giải
ở đề mục kinh). Vì “Kim-Cang Bát-Nhã”, nên các ông phải phụng tri.
22. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “KINH KIM-CANG BÁT-NHÔ
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói Bát-Nhã Ba-La-Mật, tức không phải Bát-Nhã Ba-La-Mật,
thế mới gọi là Bát-Nhã Ba-La-Mật.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn nầy Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp về kinh “Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật”.
Nếu hành-giả còn vọng chấp “có kinh Bát-Nhã và có ta phụng trì”, tức là hành-giả
còn chấp ngã (ta phụng trì) và chấp pháp (kinh Bát-Nhã) thì không phải là kinh Bát-Nhã
và thọ-trì Bát-Nhã. Phải dẹp trừ hết các vọng chấp ngã, pháp v.v… mới phải
là thọ-trì kinh Bát-Nhã.
Bởi thế nên, Phật vừa nói ra tên kinh, sợ chúng-sanh chấp tên kinh, nên Phật liền
phá chấp: “Như-Lai nói Bát-Nhã Ba-La-Mật, không phải Bát-Nhã Ba-La-Mật, thế mới
thật là Bát-Nhã Ba-La-Mật”.
23. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI CÓ THUYẾT PHÁP”
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai có thuyết pháp không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Như-Lai không có thuyết pháp.
LƯỢC GIẢI
Ðây là lần thứ hai, Phật phá cái chấp: “Như-Lai có thuyết pháp” (lần thứ nhứt ở
đoạn 11).
Tiếp theo đoạn trên, ông Tu-Bồ-Ðề hỏi kinh nầy tên gì? - Phật nói kinh
nầy tên là “Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật”. Sợ người chấp: “Như thế thì
Phật có nói pháp Bát-Nhã”, nên tiếp đến đoạn nầy, Phật phá luôn cái chấp:
“Phật có thuyết pháp”.
Nếu hành-giả còn vọng chấp: “Phật có thuyết pháp”, thì không nhập được “Kim-Cang
Bát-Nhã”. Vì ông Tu-Bồ-Ðề đã nhập được lý “Kim-Cang Bát-Nhã”, nên ông trả
lời: “Như-Lai không có thuyết pháp”.
Muốn cho độc-giả rõ thêm đoạn nầy, tôi xin nhắc lại lời giải-thích ở đoạn trước
thêm một lần nữa: Một hôm ông Tu-Bồ-Ðề ngồi yên tịnh dưới gốc cây. Trời
Ðế-Thích rưới hoa cúng-dường. Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi: “Ai rưới hoa?”
Trời Ðế-Thích thưa: “Ngài thuyết kinh Bát-Nhã hay quá! Con xin dâng
hoa cúng-dường”.
Ông Tu-Bồ-Ð ề nói: “Tôi không nói kinh Bát-Nhã”. Trời Ðế-Thích thưa:
“Ngài không nói Bát-Nhã, con không nghe Bát-Nhã”.
Kết-luận: “không nói Bát-Nhã và không nghe Bát-Nhã”, như thế mới thật là “nói
Bát-Nhã và nghe Bát-Nhã”.
Vì ngộ được lý chơn-không của kinh Bát-Nhã, nên ngài Viên-Ngộ Thiền-sư có làm bài
kệ rằng:
Nguyên văn (dịch âm):
Thập phương đồng tụ hội
Có cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ qui.
Dịch nghĩa:
Mười phương đồng tụ hội
Người người học vô vi
Ðây là trường thi Phật
“Tâm không” mới được đậu.
ÐẠI Ý
Bài kệ nầy quan-trọng nhứt là hai chữ “Tâm không”. Nếu người nào tâm không
còn các phiền-não vọng chấp ngã, pháp v.v… thì người đó nhập được Kim-Cang Bát-Nhã,
tức là đậu quả Phật.
24. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “THẬT CÓ VI-TRẦN VÀ THẾ-GIỚI”
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Những vi-trần chứa trong đại thế-giới (1 nghìn triệu thế-giới nhỏ)
có nhiều không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Nhiều lắm.
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Như-Lai nói các vi-trần, không phải thật vi-trần, chỉ tạm gọi là
vi-trần, Như-Lai nói thế-giới không phải thật thế-giới, chỉ tạm gọi là thế-giới.
LƯỢC GIẢỊ
Ðoạn nầy Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp “thật có vi-trần và thật có
thế-giới”.
Phật đã dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”; nghĩa là phàm cái gì có
hình tướng, đều là hư dối không thật. Tất cả muôn vật trong vũ-trụ, lớn như
thế-giới, nhở như vi-trần, cũng đều hư giả không thật.
Do hiệp nhiều vi-trần (bụi nhỏ) thành ra một vật lớn nhứt, rồi tạm đặt tên là thế-giới.
Trái lại, do vật lớn nhứt như thế-giới, chẻ cho đến thật nhỏ, không còn chẻ được
nữa, rồi tạm đặt tên là vi-trần (bụi nhỏ). Vậy thế-giới hay vi-trần, cùng
các vật khác, đều do vọng thức của chúng-sanh, phân biệt so-đo (kế đạt phân biệt)
rồi đặt tên như thế nầy hay thế khác, chứ không có thật thể.
Trong bộ Cu-xá luận tụng lược thích, về trang 210, có chép về vi-trần và thế-giới,
đại ý như sau: Từ vật lớn nhứt là thế-giới, rồi chẻ nhỏ thế-giới ra nhiều
lần, cho đến thành hột bụi bay qua lại các kẻ hở (như mỗi buổi sáng, mặt trời chiếu
vào các kẻ hở, chúng ta thấy rất nhiều bụi bay qua lại). Các thứ bụi nầy gọi
tên là:
1.
Khích-du-trần: bụi bay qua các kẻ hởi.
2.
Ngưu-mao-đầu-trần: Hạt bụi nhỏ ở trên đầu lông con trâu. Bụi nầy do
chẻ nhỏ bụi “khích-du” mà thành.
3.
Dương-mao-đầu-trần: Thứ bụi nầy ở trên đầu lông con dê. Thứ bụi nầy
do chẻ nhỏ bụi “ngưu-mao-đầu” mà thành.
4.
Thố-mao-đầu-trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con thỏ. Thứ bụi nầy do chẻ
nhỏ bụi “dương-mao-đầu” mà thành.
5.
Thủy-trần: Bụi rớt trong nước không ướt, vì quá nhỏ. Thứ bụi nầy do
chẻ nhỏ bụi “thố-mao-đầu” mà thành.
6.
Kim-trần: Bụi nầy có thể lọt qua những vàng khối hay sắt dầy hoặc kiến dầy;
do chẻ nhỏ bụi “thủy trần” mà thành.
7.
Vi-trần: Bụi nhỏ; do chẻ nhỏ bụi “kim-trần” mà thành.
8.
Cực-vi-trần: Bụi rất nhỏ. Hạt bụi nầy do chẻ nhỏ bụi “vi-trần” mà thành.
9.
Lân-hư-trần: Bụi gần mé hư-không. Thứ bụi nầy nhỏ nhứt, không thể chẻ
nhỏ nữa được, nếu chẻ nữa thì thành hư-không. Bụi nầy do chẻ bụi “cực-vi-trần”
mà thành.
Rồi trở lại,
từ vật nhỏ như “Lân-hư-trần”
tích tụ 7 Lân-hư-trần
thành một “Cực-vi-trần”
…… 7 Cực-vị-trần
………... “Vi-trần”
…… 7 Vi-trần
……………. “Kim-trần”
…… 7 Kim-trần
………….. “Thủy-trần”
…… 7 Thủy-trần
………….. “Thố-mao-đầu-trần”
…… 7 Thố-mao
đầu trần ….. “Dương-mao-đầu-trần”
…… 7 Dương-mao-đầu-trần
thành một “Ngưu-mao-đầu-trần”
…… 7 Ngưu-mao-đầu-trần
thành một “Khích-du-trần”
Cứ tích-tụ mãi mãi như vậy, thành những vật nhỏ, đến vật lớn, cho đến vật lớn nhứt
là “Thế-giới”
Tóm lại, chứa nhiều vi-trần thành thế-giới; chẻ nhỏ thế-giớ thành ra vi-trần.
Vi-trần và thế-giới đều do sự đối-đãi lớn với nhỏ, mà đặt ra cái tên để kêu gọi,
chớ không có cái gì là chơn thật.
Ngài Phó Ðại-sĩ làm bài tụng, nói về vi-trần và thế-giới.
Nguyên văn (dịch âm):
Tích trần thành thế-giới
Chiết giới tác vi-trần
Giới dụ nhơn thiên quả
Trần vi hữu lậu nhơn
Trần nhơn, nhơn bất thật
Giới quả, quả phi nhơn
Quả nhơn tri thị quyển
Tiêu diêu tự tại nhơn
Vọng kế nhơn thành chấp
Mê thằng vị thị xà
Tâm nghi sanh ám quỉ
Nhãn bịnh kiến không hoa
Tam nhơn nãi kiến sai
Liễu tư danh bất thật
Trường ngự bạch ngưu xa.
Dịch nghĩa:
Chứa trần thành thế-giới
Chẻ giới hóa vi-trần
Giới dụ quả nhơn-thiên
Trần là nhơn hữu lậu
Trần nhơn, nhơn không thật
Giới quả, quả chẳng nhơn
Biết quả, nhơn đều huyễn
Ðược tự tại tiêu diêu
Vọng thấy dây thành rắn
Chấp mê bởi tại tâm
Tâm sợ nên ma hiện
Mắt nhặm thấy đốm hoa
Một cảnh không sai khác
Ba người thấy chẳng đồng
Ai biết đó là huyễn
Tức là bực đại giác.
ÐẠI Ý
Bài tụng thứ nhứt nói: chứa vi-trần thành thế-giới, chẻ thế-giới thành vi-trần.
Thế-giới dụ cho quả nhơn-thiên, vi-trần là dụ cho nhơn hữu-lậu. Nhơn vi-trần
đã không thật, nên quả thế-giới cũng hư vọng. Nếu người biết được nhơn quả
đều như huyễn, thì sẽ được tiêu-diêu tự-tại.
Tiếp đến bài tụng thứ hai, đại ý nói: Vì tánh “Biến-kế-sở-chấp”, nên chấp
sợi dây là con rắn, ban đêm thấy bóng tối cho là ma; cũng như vì con mắt bị nhặm,
nên thấy có hoa đốm giữa hư-không. Cũng một cảnh không sai khác, nhưng ba
người (biến kế-sở-chấp, y-tha-khởi và viên-thành-thật) thấy chẳng đồng. Nếu
người được giác-ngộ như Phật, mới biết đó là giả danh không thật.
25. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “THẤY 32 TƯỚNG TỐ CỦA PHẬT LÀ THẤY PHẬT”
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Ông có thể cho thấy 32 tướng tốt của Như-Lai là thấy được Như-Lai
không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Không thể được. Tại sao vậy? Vì Ðức Như-Lai nói
32 tướng tốt, không phải thật 32 tướng tốt, chỉ giả gọi là 32 tướng tốt.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên (24) Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá chấp về y-báo (chấp pháp) là vi-trần
và thế-giới. Ðoạn nầy Phật lại dùng trí-huệ Bát-Nhã phá chấp về chánh-báo
(chấp ngã); nghĩa là chấp “thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật”.
Ðây là lần thứ 2 (lần thứ nhứt ở đoạn thứ 7) Phật phá chấp về thấy Phật.
Nếu còn chấp “thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật”, tức là còn chấp ngã
(ta thấy) chấp nhơn (Phật) v.v… thì không nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, nên không
thấy được Phật thiệt.
Ngài Phó Ðại-sĩ làm bài tụng, nói về việc phá các vọng chấp ngã, nhơn, năng, sở
v.v…
Nguyên văn (dịch âm):
Tảo trừ tâm ý địa
Danh vi Tịnh-độ nhơn
Vô luận phước dữ trí
Quang thả ly tham sân
Trang-nghiêm tuyệt năng sở
Vô ngã diệc vô nhơn
Ðoạn, thường cu bất nhiễm
Tần thoát xuất hồng trần.
Dịch nghĩa:
Quét sạch đất tâm ý
Ðó là nhơn Tịnh-độ
Không cần tu phước huệ
Miền bỏ được tham sân
Trang nghiêm không năng sở
Không ngã cũng không nhơn
Ðoạn, thường đều chẳng nhiễm
Siêu xuất cõi hồng-trần.
ÐẠI Ý HAI BÀI TỤNG
Không cần tu phước huệ hay phương pháp nào khác, chỉ quyét sạch tham, sân, si v.v…
ở trong tâm địa của mình, đó là nhơn để vãng-sanh về Tịnh-độ.
Dẹp trừ các vọng chấp: năng, sở, nhơn, ngã, đoạn, thường v.v… thì được siêu thoát
cõi hồng-trần, đó là trang-nghiêm cõi Phật
GIẢI DANH TỪ
32 Tướng tốt: Phật có 32 tướng
tốt.
1.
Dưới bàn chân no tròn.
2.
Dưới bàn chân có cả ngàn khu ốc.
3.
Tay chân mềm dịu.
4.
Ngón chân có màn như chân nhạn.
5.
Ngón tay ngón chân no tròn.
6.
Gót xứng với bàn chân.
7.
Bàn chân xứng với gót.
8.
Hai chân tròn vót như hai chân nai.
9.
Tay dài thòng tới đầu gối.
10.
Âm tướng quí
tàng.
11.
Chân lông ửng
màu xanh tía.
12.
Tóc lông đều
xoay qua phía mặt.
13.
Da trơn mịn
không dính dơ.
14.
Màu da sắc
vàng.
15.
Tay chân vai
cổ, bảy chỗ đều đủ.
16.
Cổ tròn lạ
thường.
17.
Hai cái nách
no đủ.
18.
Dung nghi đoan
chánh.
19.
Thân tướng
trang-nghiêm.
20.
Hình thể xứng
nhau.
21.
Oai dung như
sư-tử.
22.
Chói hào-quang
mỗi phía một lần.
23.
Hàm răng 40
cái khít và bằng.
24.
Bốn răng cấm
trắng và bén.
25.
Trong miệng
có mùi thơm.
26.
Lưỡi dài che
đặng cả cái mặt.
27.
Tiếng nói dịu
dàng đủ giọng.
28.
Lông nheo như
ngưu vương.
29.
Con mắt có
quần đỏ.
30.
Mặt như trăng
tròn.
31.
Chỗ gian-mi
có lông trắng.
32.
Trên đầu lồi
thịt lên, như đầu tóc.