Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

04 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)

BÀI THỨ TƯ

PHẦN CHÁNH TÔN (tiếp theo)

13.    PHẬT NÓI CÔNG-ÐỨ C TRÌ KINH, NHIỀU HƠN BỐ-THÍ THẤT BẢO. 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có người đựng đầy bảy báu trong đại thế-giới (một nghìn triệu thế-giới nhỏ) đem bố-thí (tài thí), thì phước đức nhiều không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa:

-          Bạch Thế-Tôn! Nhiều lắm. 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc vì người giảng nói trọn quyển hoặc nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công-đức (pháp thí) của người này nhiều hơn người trước.  Tại sao vậy?  Vì tất cả Phật và Pháp đều từ kinh này mà sanh ra. 

Phật dạy tiếp: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Gọi là “Phật, Pháp”, thực ra cũng không phải “Phật, Pháp”, chỉ tạm gọi là “Phật, Pháp”. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðây là lần thứ hai, Phật nói về công-đức thọ-trì đọc tụng kinh này, nhiều hơn người bố-thí thất bảo. 

       Ðoạn này nên chia làm ba phần để giải-thích. 

a.      So-sánh phước đức giữa tài thí và pháp thí. 

Ngọc ngà châu báu là vật rất quí, đã ít có và khó kiếm, nên không ai có nhiều được.  Nhưng nếu người nào có nhiều châu báu, đựng đầy một nghìn triệu thế-giới nhỏ (đại thế-giới) đem ra bố-thí, tất nhiên phước đức nhiều lắm. 

Nhưng, nếu có người thọ trì kinh này hoặc giảng nói cho người nghe, từ một quyển, nửa quyển, hoặc một tờ cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công-đức của người sau, lại nhiều hơn người trước.  Tại sao vậy?  Vì bố-thí tiền tài, dù có nhiều bao nhiêu cũng chỉ giúp về phần vật chất, làm cho người giàu có sung-sướng nhứt thời mà thôi.  Còn bố-thí về giáo-pháp là giúp về tinh thần, làm cho người hiểu biết giáo-lý tu hành, thoát ly sanh-tử luân-hồi, kiến tánh thành Phật, rồi trở lại độ chúng-sanh đều được giải-thoát.  Bởi thế nên bố-thí pháp (tinh-thần) tuy ít, nhưng phước đức nhiều hơn bố-thí tài (vật chất). 

b.      Phật và Pháp đều từ kinh này sanh. 

Kinh này là kinh “Kim-Cang Bát-Nhã”, tức là kinh nói về “trí-huệ Phật”.  Trí-huệ này phá núi vô-minh phiền-não, nhưng không bị hư hoại, nên gọi là “Kim-Cang”.   

       Nhờ trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã phá hết vô-minh, nên mới minh tâm kiến tánh thành Phật, nên nói “kinh nầy sanh ra chư Phật”.  Và sau khi thành Phật rồi, cũng nhờ có trí-huệ Bát-Nhã mới nói ra giáo pháp, nên nói “kinh nầy sanh ra Pháp”. 

c.       Phá cái chấp “thật có Phật, Pháp”. 

Ðúng theo “Tánh Bát-Nhã Chơn-không”, thì nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, nên không có thể kêu gọi là gì được cả.  Nhưng sở dĩ gọi “Phật, Pháp”, là một danh từ, đặt ra để gọi tạm mà thôi; thật ra cũng không phải là “Phật, Pháp”.  Nếu còn chấp “thật có Phật, Pháp” thì không đúng với “Tánh Bát-Nhã Chơn-không”, nên Phật dạy: “Gọi là Phật Pháp, thực ra cũng không phải Phật Pháp, chỉ tạm gọi là Phật Pháp”. 

GIẢI DANH TỪ 

       Bảy món báu:  Vàng, bạc, ngọc lưu-ly, ngọc xa-cừ, ngọc mã-não, ngọc san-hô và ngọc hổ-phách.     

       Ðại thế-giới:  tức là Ðại-thiên thế-giới.  Thế-giới chúng ta ở đây là một thế-giới nhỏ; 1.000 thế-giới nhỏ, gọi là “Tiểu-thiên thế-giới”; 1.000 Tiểu-thiên thế-giới, gọi là “Trung-thiên thế-giới”; 1.000 Trung-thiên thế-giới, gọi là “Ðại-thiên thế-giới”.  Một Ðại-thiên thế-giới là một nghìn triệu thế-giới nhỏ.  Thế-giới Ta-bà là một Ðại-thiên thế-giới. 

       Kệ:  Một bài kệ là 4 câu, hoặc nhiều câu, như thơ tứ cú, bát cú v.v… ở nước ta. 

       Thọ-tri:  Lãnh-thọ và hành-trì. 

14.    BỐN QUẢ THINH-VĂN, KHÔNG NÊN CHẤP MÌNH CÓ CHỨNG QUẢ. 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu vị Tu-đà-hoàn tự nghĩ rằng: “Tôi đã đặng quả Tu-đà-hoàn”; nghĩ như thế có được không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Không thể được.  Tại sao vậy? - Vị Tu-đà-hoàn, phải không còn thấy mình có chứng quả Tu-đà-hoàn (Tàu dịch Nhập-lưu), thế mới thật là chứng quả Tu-đà-hoàn. 

Phật hỏi:

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu vị Tư-đà-hàm tự nghĩ rằng:  “Tôi đã đặng quả Tư-đà-hàm”; nghĩ như thế có được không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Không thể được.  Tại sao vậy? - Vị Tư-đà-hàm, phải không còn thấy mình có chứng quả Tư-đà-hàm (Tàu dịch Nhứt-lai), thế mới thật là chứng quả Tư-đà-hàm. 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu vị A-na-hàm tự nghĩ rằng:  “Tôi đã đặng quả A-na-hàm”; nghĩ như thế có đặng không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Không thể được.  Tại sao vậy?  -  Vị A-na-hàm, phải không còn thấy mình có chứng quả A-na-hàm (Tàu dịch là Bất-lai), thế mới thật là chứng quả A-na-hàm. 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu vị A-la-hán tự nghĩ rằng:  “Tôi đã đặng quả A-la-hán”; nghĩ như vậy có đặng không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Không thể được.  Tại sao vậy?  -  Vị A-la-hán, phải không còn thấy mình có chứng quả A-la-hán, thế mới thật là chứng quả A-la-hán.  Nếu còn thấy mình chứng quả A-la-hán tức là còn trụ chấp (dính mắc) về bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, thì không phải thật chứng A-la-hán. 

-          Bạch Thế-Tôn!  Cũng như con đây, vì con không còn chấp mình có tu chứng, nên mới được Như-Lai chứng nhận: “Tu-Bồ-Ðề đã đặng pháp Tam-muội vô tránh; Tu-Bồ-Ðề là người ưa tu hạnh tịch-tịnh (A-lan-na); Tu-Bồ-Ðề là vị A-la-hán ly dục thứ nhứt.  Trong chúng, Tu-Bồ-Ðề là hơn hết”. 

-          Bạch Thế-Tôn!  Nếu con nghĩ (chấp) rằng:  “Con đã đặng quả A-la-hán, con là vị A-la-hán ly dục thứ nhứt v.v… thì Ðức Như-Lai không chứng nhận và không khen ngợi con như vậy”. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn nầy Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã, phá trừ cái chấp của bốn quả Thinh-văn, tự thấy mình có chứng quả. 

       Trong kinh Tứ-thập-nhị chương có chép: 

       “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng v.v…” 

       Nghĩa là: Tu mà không còn chấp mình tu, thế mới thật là tu.  Chứng quả, mà không chấp mình chứng quả, thế mới thật là chứng quả v.v… 

       Nếu người tu chứng, đúng theo tinh thần của “Kim-Cang Bát-Nhã”, nghĩa là không còn các vọng chấp ngã và pháp hay bốn tướng, thì mới phải thật tu và thật chứng. 

       Trái lại, nếu còn chấp ngã, pháp hay bốn tướng (ngã, nhơn v.v…) tức là không nhập được “Kim-Cang Bát-Nhã”, thì không phải thật tu và thật chứng. 

       Bởi thế nên bốn quả Thinh-văn, nếu còn tự thấy mình có chứng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán, tức là còn chấp ngã (ta chứng đặng) và chấp pháp (quả-vị để chứng) thì không nhập được “Kim-Cang Bát-Nhã”, nên không phải là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. 

       Ông Tu-Bồ-Ðề, tự đem mình ra làm thí dụ điển-hình.  Ðại ý ông nói: Nếu ông chấp rằng: “Tôi đã đặng pháp Tam-muội và đặng quả A-la-hán v.v…” tức nhiên ông còn chấp ngã (quả A-la-hán) chấp pháp (Tam-muội), chưa nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, thì Phật đâu có ấn-chứng cho ông là vị A-la-hán ly dục thứ nhứt v.v… 

       Nài Phó Ðại-sĩ nói bài tụng giải-thích rằng: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Vô sanh tức vô diệt

               Vô ngã phục vô nhơn

               Vĩnh trừ phiền-não chướng

               Trường từ hậu hữu thân

               Cảnh vong tâm diệc diệt

               Vô phục khởi tham sân

               Vô bi không hữu trí

               Hốt nhiên độc nhậm nhơn. 

       Dịch nghĩa: 

               Không sanh cũng không diệt

               Không ngã cũng không nhơn

               Dứt trừ phiền-não chướng

               Không còn có thân sau

               Tâm cảnh đều vắng lặng

               Do đâu khởi tham sân

               Không bi cũng không trí

               Thế mới nhập Chơn-như. 

ÐẠI Ý 

       Nếu không còn các vọng chấp nhơn, ngã, sanh, diệt v.v… thì các phiền-não không do đâu sanh ra.  Phiền não không sanh, tức không tạo nghiệp, nên không bị sanh tử luân hồi.  Vì tâm và cảnh đã vắng-lặng thì do đâu khởi tâm, sân, si.  Cho đến bi và trí cũng không chấp, nên chơn-tâm hay chơn-như tự hiện bày. 

       Tóm lại, vì không còn các vô-minh vọng-chấp: nhơn, ngã, tâm, cảnh, sanh, diệt v.v… nên mới chứng đặng chơn-tâm thanh-tịnh.  Như thế mới thật tu và thật chứng. 

GIẢI DANH TỪ 

       Tu-đà-hoàn:  Trong bốn quả Thanh-văn của Tiểu-thừa, Tu-đà-hoàn là quả Thánh nhỏ nhứt.  Tu-đà-hoàn là dịch âm tiếng Phạn, Trung-hoa dịch là “Dự-lưu” hoặc “Nhập lưu”, nghĩa là mới dự vào dòng Thánh-nhơn. 

       Tư-đà-hoàn:  Quả Thánh thứ hai trong bốn quả Thanh-văn. Trung-hoa dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa là “Nhứt-vãng-lai”; nghĩa là còn một lần qua lại cõi nhơn, thiên để tu-hành đoạn hoặc, rồi mới chứng quả A-la-hán. 

       A-na-hàm:  Quả Thánh thứ ba trong bốn quả.  Trung-hoa dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa “Bất-lai”; nghĩa là không còn trở lại thọ sanh trong Dục-giới nữa. 

       A-la-hán:  Quả Thánh thứ tư trong bốn quả.  Trung-hoa dịch âm tiếng Phạn, nếu dịch nghĩa, có ba: 

a.       Vô-sanh:  Không còn sanh trở lại ba cõi.

b.      Sát tặc:  Ðã giết hết các giặc phiền não.

c.       Ưng-cúng:  Xứng đáng cho nhơn thiên cúng-dường. 

Do tu nhơn Tỳ-kheo có ba nghĩa, nên chứng quả A-la-hán cũng có ba nghĩa: 

Nhơn Tỳ-kheo:     Phá ác …… Vô sanh          : Quả A-la-hán

                             Bố ma ……  Sát tặc          

                             Khất sĩ …...  Ưng cúng       

       Tam-muội:  Trung-hoa dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa là “Chánh định”. 

       Tam-muội vô-tránh:  Pháp chánh-định hơn hết. 

       A-lan-na:  Trung-hoa dịch âm tiếng Phạn; nghĩa là không ồn-ào náo-nhiệt, vắng-vẻ thanh-tịnh, giải-thoát không bị trần-lụy. 

15.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI CÓ ÐẮC PHÁP”. 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Về quá-khứ đối với trước Phật Nhiên-Ðăng, ta có “đắc pháp” không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Ðức Như-Lai thật không có “đắc pháp” gì cả. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp “Như-Lai thật có đắc pháp”. 

       Kinh chép:  “Về quá-khứ vô lượng, vô số kiếp về trước, Ðức Thích-Ca đối trước Phật Nhiên-Ðăng, được Ngài truyền chánh-pháp và thọ-ký, tương lai sẽ được thành Phật, hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni”. 

       Nhưng, nếu Như-Lai còn chấp mình có “đắc pháp và được thọ-ký” tức là Như-Lai còn chấp (ta được) chấp pháp (đắc pháp) thì không phải là Như-Lai.  Bởi thế nên ông Tu-Bồ-Ðề thưa:  “Bạch Thế-Tôn!  Như-Lai không có đắc pháp gì cả”. 

       Vì Như-Lai không chấp mình có “đắc pháp” và “thọ-ký”, nên không mắc vào bốn tướng: ngã, nhơn v.v… được nhập Kim-Cang Bát-Nhã.  Như thế mới thật là “đắc pháp” và “được thọ-ký”. 

16.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “BỒ-TÁT THẬT CÓ LÀM TRANG-NGHIÊM CÕI PHẬT”. 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Bồ-tát có làm trang-nghiêm cõi Phật không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Bồ-tát không làm trang-nghiêm cõi Phật.  Tại sao vậy?  Bồ-tát làm trang-nghiêm cõi Phật, mà không thấy (chấp) mình có trang-nghiêm cõi Phật, như thế mới thật là trang-nghiêm cõi Phật. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp “Bồ-tát có làm trang-nghiêm cõi Phật”. 

       Bồ-tát làm các Phật sự, giáo-hóa chúng-sanh, đó là trang-nghiêm cõi Phật.  Nhưng, nếu Bồ-tát còn chấp mình có làm Phật sự, giáo-hóa chúng-sanh, thì Bồ-tát còn tâm nhiễm-ô vọng chấp ngã (ta giáo-hóa) nhơn (người được giáo-hóa).  Ðem tâm nhiễm-ô vọng chấp mà làm “trang-nghiêm cõi Phật”, thì cõi Phật thành nhiễm-ô, không thể “trang-nghiêm cõi Phật thanh-tịnh” được. 

       Trái lại, phải dùng tâm thanh-tịnh (không còn các nhiễm-ô vọng chấp, chấp ngã, chấp pháp v.v…) mà trang-nghiêm cõi Phật, thì cõi Phật mới thanh-tịnh trang-nghiêm được. 

       Ngài Xuyên Thiên-sư dạy: 

       Nguyên văn (dịch âm):

               Chánh nhơn thuyết tà pháp, tà pháp tất qui chánh

               Tà nhơn thuyết chánh pháp, chánh pháp tất qui tà

               Giang-Bắc thành chỉ, Giang-Nam quít

               Xuân lai đô phóng nhứt ban hoa. 

       Dịch nghĩa: 

               Người chánh nói pháp tà, pháp tà tất qui chánh

               Người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà

               Cũng một cây, nhưng ở Giang-Bắc thì câychỉ-xát, Giang-Nam thì thành cây quít

               Xuân về đều trổ một thứ hoa. 

ÐẠI Ý 

       Người đem tâm đời (danh, lợi, sân, si v.v…) mà làm việc Ðạo (làm các Phật sự) thì việc Ðạo biến thành việc đời.  Trái lại, người đem tâm Ðạo (từ-bi, hỷ-xả v.v…) mà làm việc đời (tiếp xúc làm việc với chúng-sanh) thì việc đời trở thành việc Ðạo (tứ nhiếp pháp, ngũ minh v.v…) cũng như một thứ cây, nhưng nếu ở đất Giang-Bắc thì thành cây chỉ-xát, trái đặc ruột và chua, ăn không được; còn ở đất Giang-Nam thì thành cây quít, trái ngọt. 

       Dù việc chánh hay tà, việc đời hay đạo, đều có nhơn và có quả, chẳng qua tốt hay xấu mà thôi.  Cũng như cây chỉ-xát hay cây quít, Xuân về đều trổ một thứ hoa và ra một thứ trái; nhưng trái quít thì ngọt, mà chỉ-xát lại chua. 

17.    PHẬT DẠY: “ÐỪNG SANH VỌNG TÂM TRỤ CHẤP MỘT NƠI NÀO”. 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Các vị Ðại Bồ-tát phải giữ tâm thanh-tịnh, chớ nên sanh vọng tâm trụ chấp nơi sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần và pháp-trần.  Tóm lại, Bồ-tát đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả.  (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm). 

LƯỢC GIẢI 

       Hai đoạn trên phá cái chấp “Như-Lai có đắc pháp” và “Bồ-tát có làm trang-nghiêm cõi Phật”.  Ðoạn này tóm lại, Bồ-tát phải giữ tâm thanh-tịnh, không nên sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả. 

       Tất cả sự vật trong vũ trụ, tuy vô cùng vô tận, nhưng không ngoài 18 giới là 6 căn, 6 trần và 6 thức; căn và trần thuộc về vật chất, còn thức thuộc về tinh-thần. 

       Phật dạy các vị Bồ-tát, phải giữ tâm thanh-tịnh, không nên sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) nơi sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần và pháp-trần v.v… 

       Tóm lại, chỉ trong một câu, Phật dạy: “Ðừng sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) một nơi nào”. 

       Thuở xưa, Ngài Huệ-Năng vừa nghe phú-ông tụng kinh Kim-Cang Bát-Nhã vừa đến một câu:      

               “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.  (Ðừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào) 

       Ngài liền tỏ ngộ lý Kim-Cang Bát-Nhã !....  Ngài hân-hoan ca ngợi: “Hay quá!  Kinh Kim-Cang Bát-Nhã hay quá!” (Xem quyển “Ðức Lục Tổ Huệ Năng” do Hương-Ðạo xuất bản) 

       “Ðừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào”, tức là “đừng sanh vọng tâm chấp ngã, chấp pháp v.v…”  Không chấp ngã, pháp thì phiền-não không sanh.  Phiền-não không sanh thì tâm được thanh-tịnh, không tạo nghiệp sanh tử luân hồi.  Ðó là phương pháp tu của Ðại-thừa Ðốn-giáo, rất giản-dị và mau chóng, để hàng phục vọng tâm và an trụ chơn-tâm. 

       Sau khi đại ngộ lý kinh Bát-Nhã, Tổ Huệ-Năng đã minh tâm kiến tánh, nên Ngài có dạy rằng: 

       Nguyên văn (dịch âm); 

               Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh-tịnh

               Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt

               Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc

               Hà kỳ tự tánh bổn vô diêu động

               Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp. 

       Dịch nghĩa: 

               Ai ngờ tâm mình vốn tự thanh-tịnh

               Ai ngờ tâm mình vốn không sanh diệt

               Ai ngờ tâm mình vốn tự đầy đủ

               Ai ngờ tâm mình vốn không diêu động

               Ai ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp. 

       Ðức Ngũ-Tổ đến lúc tuổi già, muốn chọn người để truyền Tổ-vị, nên Ngài truyền dạy trong chúng, mỗi người phải làm một bài kệ, để trình-bày sự tu chứng của mình, nếu người nào tỏ ngộ được lý Ðạo, Ngài sẽ truyền Tổ-vị, làm Tổ thứ Sáu. 

       Ngài Thần-Tú là bực Thượng-tọa, tài đức siêu-quần, làm bài kệ rất hay, nhưng vì chưa tỏ ngộ được lý Kim-Cang Bát-Nhã, còn trụ chấp các tướng, có tu, có chứng v.v… nên bị Tổ Huệ-Năng quở rằng: “Còn đứng ngoài hàng rào”. 

       Bài kệ của Ngài Thần-Tú:      

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Thân thị Bồ-đề thọ

               Tâm như minh-cảnh đài

               Thời thời thường phất thức

               Vật sử nhá trần si. 

       Dịch nghĩa:      

               Thân là cây Bồ-đề       (có tướng)

               Tâm như đài gương sáng    (có tướng)

               Mỗi giờ thường lau quét    (có tu)

               Chớ cho dính bụi trần        (có chứng). 

       Tổ Huệ-Năng, đã ngộ được lý Kim-Cang Bát-Nhã, không trụ chấp các tướng, nên được đức Ngũ-Tổ truyền trao y-bát và cho làm vị Tổ thứ sáu. 

       Bài kệ của Tổ Huệ-Năng: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Bồ-đề bổn vô thọ

               Tâm phi minh-cảnh đài

               Bổn lai vô nhứt vật

               Hà xứ nhá trần ai. 

       Dịch nghĩa: 

               Bồ-đề không phải cây         (vô tướng)

               Chơn-tâm không phải đài   (vô tướng)

               Xưa nay không một vật      (vô tướng)

               Chỗ nào dính bụi trần         (vô tướng). 

18.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “THÂN PHẬT CAO LỚN NHƯ NÚI TU-DI”. 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Báo-thân của Phật như núi Tu-di.  Vậy Báo-thân của Phật có cao lớn không? 

Ông Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Lớn lắm.  Nhưng, Phật nói:  “Không chấp thân cao lón, mới thật là cao lớn”. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã, phá trừ cái chấp “Báo-thân Phật cao lớn”. 

       Từ trước đến nay, đã nhiều lần hỏi và đáp.  Vì muốn phá các vọng chấp, để nhập với “Tánh Bát-Nhã Chơn-không”, cho nên Phật hỏi.  Và cũng vì muốn phá các vọng chấp, để chập với “Tánh Bát-Nhã Chơn-không”, cho nên ông Tu-Bồ-Ðề đáp.  Nếu chúng-sanh chấp có, thì Ngài nói không; chúng-sanh chấp không thì Ngài nói có v.v…  Dù nói có, nói không, nói lớn, nói nhỏ v.v… đều để phá các chấp của chúng-sanh, đem về “Tánh Bát-Nhã Chơn-không”. 

       Phật hỏi ông Tu-Bồ-Ðề:  “Báo-thân của Phật có cao lớn không?” 

       Tu-Bồ-Ðề thưa:  “Báo-thân của Phật cao lớn lắm”. 

       Nhưng sợ chúng-sanh chấp “thân Phật cao lớn”, nên ông Tu-Bồ-Ðề liền dẫn lời Phật nói để phá chấp: “Phật nói không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn”.  Nghĩa là:  Phàm cái gì còn thấy nghe và suy nghĩ được, thì cái đó không phải là tuyệt đối; phải siêu thoát ra ngoài sự thấy nghe và suy nghĩ, mới là tuyệt đối. 

       Ðức Lão-Tử nói:  “Ðạo mà có thể nói được, thì không phải thật là Ðạo”. 

       Tóm lại, nếu còn “chấp thân cao lớn”, tất nhiên còn chấp ngã và chấp pháp, thì không nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, nên chưa phải thân cao lớn. 

GIẢI DANH TỪ 

       Báo-thân:  Phật có ba thân: 

a.      Pháp thân:

 Tức là pháp-tánh hay chơn-tâm, không có hình tướng. 

b.      Báo thân:  

Thân do phước báo tu-hành, trải qua 3 vô số kiếp mới được.  Kinh chép:  Báo-thân của Phật lớn bằng núi Tu-di; duy có bực Bồ-tát mới thấy được. 

c.      Ứng-thân hay Hóa-thân:  

Phật tùy các loại chúng-sanh mà ứng-hiện hay hóa-hiện ra mỗi thân, để tế-độ. 

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ XII)
05 - PHẦN CHÁNH TÔN (TIẾP THEO)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712