Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

03 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)

BÀI THỨ BA

PHẦN CHÁNH TÔN (tiếp theo) 

7.      KHÔNG NÊN CHẤP: “THẤY THÂN TƯỚNG CỦA PHẬT LÀ THẤY ÐƯỢC PHẬT”. 

Phật hỏi: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Ông có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như-Lai chăng? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Không thể cho thấy cái thân tướng của Ngài đó là thấy được Như-Lai.  Tại sao vậy?  -  Vì Như-Lai nói:  “Cái thân tướng nầy, không phải thật là thân tướng của Như-Lai”. 

Phật dạy tiếp: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Phàm cái gì có hình tướng đều hư vọng.  Nếu các ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng, không thật (phi tướng) tức là thấy được Như-Lai (thật tướng các pháp). 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn nầy, Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp:  “Thấy sắc thân của Phật là thấy được Phật”.  Ðây là lần thứ nhứt nói về việc thấy Phật. 

       Trên đường tu hành, phải có đủ cả Sự và Lý.  Nhờ Sự-tướng bên ngoài, mới ngộ được Lý-tánh bên trong; có ngộ Lý-tánh bên trong, mới thấu rõ được Sự-tướng bên ngoài. 

       Người chấp Lý mà bỏ Sự, cũng như người chỉ kể suông đủ các thức ăn cao-lương mỹ-vị, nhưng bụng vẫn đói.  Người mê Sự mà bỏ Lý, cũng như trẻ con mê bánh vẽ. 

       Nhờ có tượng cốt giả, kinh giấy, tăng-phàm v.v… là Sự-tướng bên ngoài, để giúp chúng ta nhớ lại tìm cầu Phật thiệt, Pháp thiệt và Tăng thiệt trong tự tâm của chúng ta. 

       Nếu bác bỏ Sự-tướng bên ngoài là hư-giả (không thờ Phật, tụng kinh v.v…) mà chỉ chấp suông về phần Lý-tánh bên trong (Phật tức tâm), thì Ðức Phật nơi tâm ta cũng không làm sao hiển lộ ra được. 

       Chư Tổ dạy: 

               Thật tế lý địa, bất thọ nhứt trần

               Phật sự muôn trùng, bất xả nhứt pháp. 

       Nghĩa là:  Về Phật tâm thanh-tịnh, thì không có một mảy trần.  Nhưng về phần Sự-tướng tu hành, không thể bỏ qua một pháp nào. 

       Trái lại, nếu chấp về Sự-tướng (cầu Phật bên ngoài) mà không tìm Phật thiệt nơi tự tâm của mình, thì cũng không bao giờ thấy được Phật.  Bởi thế nên Phật dạy:  “Nếu người chấp: “thấy sắc thân của ta cho là thấy được Phật, nghe tiếng nói Pháp của ta cho là nghe được tiếng Phật”, thì người đó đã đi lạc về đường tà, không bao giờ thấy được Phật”.  (KINH KIM-CANG) 

       Ngày xưa, có hai vị Tỳ-kheo, từ phương xa đến chiêm bái Phật.  Ði đường xa hết nước, bị khát lâu ngày, vừa gặp ao nước có sinh-trùng, một vị giữ giới không uống nên chết giữa đường, một vị uống nước được sống, đi đến ra mắt Phật. 

       Phật quở rằng:  “Ông Tỳ-kheo giữ giới kia tuy chết, nhưng ông vẫn sống và đã thấy ta rồi.  Còn ông không giữ giới tuy sống, ở sát bên ta, nhưng thật ra ông đã chết và cách ta ngàn dặm”. 

       Tại sao, vị Tỳ-kheo giữ giới bị chết giữa đường không thấy Phật, mà Phật lại cho “đã thấy được Phật rồi”; trái lại, vị Tỳ-kheo không giữ giới còn sống ở bên Phật thấy được Phật, mà Phật lại cho là “cách Phật ngàn dặm?”. 

       Cho biết, thấy cái sắc thân có 32 tướng tốt, và 80 vẻ đẹp bên ngoài của Phật, chưa phải là thấy được Phật; phải thấy “Phật tâm thanh-tịnh” hay “pháp thân Phật” mới thật là thấy Phật. 

       Song le, đa số chúng-sanh, chỉ rong ruổi chạy theo giả tướng, tìm Phật bên ngoài, mà không biết xoay trở lại tìm đức Phật thiệt trong tâm của mình.  Bởi thế nên cổ-nhơn quở: “Phật trong nhà không thờ, mà thờ đức Thích-Ca ngoài đường” là vậy.

       Vì phá cái mê lầm này, nên Tổ Ðơn-Hà đốt một vị Phật gỗ (Phật giả).  Có người hỏi Ngài: “đốt để làm gì?” – Ngài trả lời: “đốt để tìm xá-lợi” (tìm Phật thiệt).  Ông chủ chùa thấy vậy sợ khủng khiếp, nên rụng hết râu mày: vì hủy kinh đốt Phật là tội rất nặng. 

       Vì sự kiện này, nên cổ-nhơn có làm bài kệ: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Ðơn-Hà thiêu mộc Phật

               Viện chủ lạc tu mi

               Nhứt trường kỳ đặc sự

               Thiên hạ thiểu nhơn tri. 

       Dịch nghĩa: 

               Tổ Ðơn-Hà đốt Phật gỗ

               Ngài Viện-chủ rụng râu mày

               Một trường hợp rất đặc biệt

               Trong thiên hạ ít người biết. 

       Trọng-tâm trong đoạn văn này là hai chữ “thấy Phật”.  Phật hỏi: “Ông có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như-Lai chăng?” – Ngài Tu-Bồ-Ðề đáp: “Không thể cho thấy cái thân tướng của Phật là thấy Phật”. 

       Phật dạy tiếp: “Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng”, (phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng).  Sắc thân của Phật do tứ-đại giả họp, có hình tướng, nên cũng là hư vọng.  Bởi thế nên thấy sắc thân của Phật, chưa phải là thấy được Phật. 

       Vậy thì, thấy cái gì mới là thấy Phật? 

       Phật dạy tiếp: “Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều là hư vọng, tức là thấy được Như-Lai” (thật tướng các pháp). 

       Ngài Thái-Hư Pháp-sư giảng: 

       “Ðoạn này không những nói sắc thân của Phật là hư vọng, mà tất cả các hình tướng, như thế-giới chúng-sanh v.v… cũng đều là hư vọng, như hoa trong gương, như trăng dưới nước, không có chơn thật.  Nếu người rõ thấu được các tướng đều hư vọng như vậy, tức là đã thấy được “pháp thân của Như-Lai”, tức là rõ thấu được “tướng chân thật của các pháp”, cũng tức là “trí huệ vô thượng”, và cũng tức là “Kim-Cang Bát-Nhã diệu tâm”. 

       Tóm lại, đoạn kinh nầy, Phật dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã, phá trừ vọng chấp: “thấy sắc thân có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp bên ngoài của Phật, rồi chấp là thấy được Phật”, mà quên xoay trở lại, tự tìm cầu đức Phật thiệt trong tự tâm của mình. 

8.      NGƯỜI TIN ÐƯỢC KINH NÀY, LÀ DO ÐÃ TRỒNG CĂN LÀNH TỪ NHIỀU KIẾ P TRƯỚC. 

Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Chúng-sanh nghe đến kinh này, chẳng biết có tin được không? 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Ông chớ nên lo như vậy.  Không những hiện-tại mà cả vị-lai đều có người nghe và tin được kinh này.  Sau 500 năm, khi Như-Lai nhập diệt, nếu có người xuất-gia (trì giới) hoặc tại-gia (tu phước) nghe đến kinh này, mà sanh lòng tin thọ, thì biết người này đã trồng căn lành (đã tu), không phải mới bốn năm đời Phật, mà đã nhiều kiếp tu hành, từ vô lượng vô số chư Phật đến nay. 

LƯỢC GIẢI 

       Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật: “Không biết chúng-sanh nghe đến kinh này, có tin được không?”.  Ðây là lần thứ nhứt hỏi về việc tin thọ. 

       Phật vì những hàng Ðại-thừa Bồ-tát, nói kinh Kim-Cang Bát-Nhã, dạy các vị Bồ-tát, dùng trí-huệ Bát-Nhã, phá trừ các vô-minh vọng chấp ngã, pháp, để trở về với bản tâm thanh-tịnh là tánh Bát-Nhã chơn không, vô trụ vô tướng. 

       Ông Tu-Bồ-Ðề lo ngại cho chúng-sanh căn cơ thấp kém, sợ e không hiểu và không tin, nên ông hỏi Phật: “Không biết chúng-sanh nghe đến kinh này, có tin được không?”. 

       Ðại ý, Phật dạy: Không những hiện-tại ở đời Chánh-pháp, có chúng-sanh hiểu và tin được kinh này, mà vị-lai, sau khi Phật nhập-diệt 500 năm, trong đời Tượng-pháp hoặc Mạt-pháp, cũng có chúng-sanh hiểu và tin được kinh này.  Nhưng, những chúng-sanh đời Tượng-pháp hoặc Mạt-pháp, tin được kinh này, là do họ đã nhiều kiếp có tu hành, trồng căn lành từ vô-lượng đức Phật về trước (như Ngài Huệ-Năng chỉ nghe một câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh này mà được tỏ ngộ), chứ không phải mới tu từ bốn năm đời đức Phật trở lại đây. 

9.      NGƯỜI THỌ-TRÌ KINH NÀY ÐƯỢC CÔNG-ÐỨC VÔ LƯỢNG. 

Phật dạy tiếp: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai thấy rõ ràng và biết chắc chắn:  Nếu có chúng-sanh nào nghe đến kinh này, sanh tâm tín thọ, cho đến trong thời-gian rất ngắn, chỉ nhứt niệm, thì chúng-sanh đó sẽ được phước đức vô lượng vô biên. 

-          Tại sao vậy?  - Vì chúng-sanh này không còn chấp tướng ngã tướng nhơn, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, tướng phải pháp và tướng không phải pháp. 

LƯỢC GIẢI 

       Phật khuyên người tin và thật hành theo kinh này, sẽ được công-đức vô lượng.  Ðây là lần khuyên thứ nhứt. 

       Người có cái khiếu về âm-nhạc, mới nhận được cái hay và tra thích về âm-nhạc.  Người có cái khiếu về hội-họa mới thấy được cái đẹp và ưa thích về hội-họa.  Người có cái khiếu về văn-chương mới nhận được cái hay và ưa thích về văn-chương. 

       Cũng thế, người có cái khiếu Bát-Nhã, hay nói theo danh từ Duy-thức là “hạt giống Bát-Nhã”, mới hiểu và tin được kinh Bát-Nhã. 

       Người đã có hạt giống Bát-Nhã, tất nhiên không còn chấp các tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh, thọ giả, tướng phải pháp (Phật pháp) và tướng không phải pháp (tà pháp).  Người này được nghe  thêm kinh Bát-Nhã làm cho hạt giống Bát-Nhã của mình được sanh trưởng, sẽ mau đặng đạo quả Bồ-đề. 

       Bởi thế nên Phật dạy: “Ta thấy rõ ràng và biết chắc chắn: chúng-sanh nào nghe hiểu và tin được kinh này, thì sẽ được phước đức vô lượng vô biên”. 

10.  GIÁO-PHÁP CỦA PHẬT CŨNG NHƯ CHIẾC THUYỀN ÐƯA NGƯỜI QUA BỂ KHỔ. 

Phật dạy: 

-          Nếu các ông còn chấp các tướng, hoặc chấp “tướng chánh pháp” hay chấp “tướng phi chánh pháp” thì cũng đều bị dính mắc nơi bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ giả.  Bởi thế nên không được chấp “tướng chánh pháp” hay chấp “tướng phi chánh pháp”. 

Cũng vì lẽ đó, nên Như-Lai thường dạy:   

-          Các thấy Tỳ-kheo phải biết: giáo pháp của ta cũng như chiếc đò, đưa người qua sông; các ông không nên trụ chấp nơi giáo-pháp. 

-          “Chánh pháp” còn không nên trụ chấp huống chi là “phi pháp”. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã, phá trừ các chấp “chánh pháp” và chấp “phi chánh pháp”. 

       Phật dạy hành-giả, không nên chấp một tướng gì cả; dù là “chánh pháp” (hay Phật pháp) cũng không được chấp.  Nếu còn trụ chấp, bất luận một tướng gì, thì cũng đều bị mắc vào bốn tưóng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, hay nói gọn hơn là mắc vào tướng ngã, pháp.  Nếu còn chấp ngã, pháp, thì phiền-não vọng-chấp đua nhau sanh khởi.  Phiền-não vọng chấp sanh khởi, thì hành-giả không thể hàng phục được vọng-tâm và an trụ chơn-tâm. 

       Bởi thế nên Phật dạy: “giáo pháp của Phật cũng như chiếc đò đưa người qua sông”.  Khi đến bờ rồi hành-giả phải bỏ chiếc đò, mà lên bờ.  Trái lại, nếu hành-giả cứ khư-khư chấp giữ chiếc đò, thì không bao giờ lên bờ được.  Người tu-hành cũng thế, phải bỏ cái “chấp”, mới lên bờ giải-thoát được. 

       Trong kinh Viên-giác chép:  “Tất cả kinh giáo của Phật, cũng như ngón tay để chỉ mặt trăng.  Người xem, phải nương ngón tay mới thấy được mặt trăng.  Nhưng nếu ngón tay (chỉ xem ngón tay) thì không bao giờ thấy được mặt trăng”. 

       Tóm lại, Phật dạy: “chánh pháp” (Phật pháp) còn không nên chấp, huống chi là “phi pháp”. 

       Ngài Xuyên Thiền-sư ngộ được lý vô trước của kinh Bát-Nhã, nên làm bài kệ rằng: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Ðắc thọ phàn chi mạc túc kỳ

               Huyền nhai tán thủ trượng phu nhi

               Thủy hàn dạ lãnh ngư nan mích

               Lưu đắc không thuyền tải nguyệt qui. 

       Dịch nghĩa: 

               Níu nhánh chuyền cây chẳng phải tài

               Dốc đứng buông tay mới trượng phu

               Gió lạnh đêm khuya câu chẳng có

               Thuyền không chỉ chở bóng trăng thanh. 

ÐẠI Ý 

       Câu thứ nhứt, nói về tiệm-tu, phải lần hồi, còn chấp trụ nơi danh tướng; cũng như người đi mà níu nhánh vịn cây, thì không có gì hay cả. 

       Câu thứ hai, nói về đốn-tu, không trụ chấp các tướng; cũng như người đi lên dốc ngược, mà không níu vịn đâu hết, mới là bực dại tài. 

       Câu thứ ba, nói về tâm cảnh đều vắng lặng; cũng như canh khuya thanh vắng, bầu trời yên lặng, mặt nước phẳng lặng như tờ, cá chim cũng đều lặng nghỉ, không hoạt-động. 

       Câu thứ tư, nói về khi các vọng-chấp các tướng ngã, pháp đã hết, thì chỉ còn ánh trí-huệ Bát-Nhã chơn không; cũng như chiếc thuyền không (không chấp) chỉ chở bóng trăng thanh (trí-huệ Bát-Nhã). 

11.  PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI CÓ THÀNH PHẬT VÀ THUYẾT-PHÁP”. 

Phật hỏi ông Tu-Bồ-Ðề: 

-          Như-Lai có thành Phật không? Và Như-Lai có thuyết pháp không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Như-Lai không thành Phật và Như-Lai cũng không thuyết pháp.  Tại sao vậy?  Vì pháp của Như-Lai, không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp, mà cũng không phải phi pháp. 

-          Như thế thì làm sao, có cái gì quyết định là “thành Phật”, và có cái gì quyết định là “nói pháp”.

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn nầy Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp “Như-Lai thật có thành Phật, và thật có nói pháp”. 

       Trong Duy-thức Tam-thập tụng có chép: 

       Hiện tiền lập thiểu vật

       Vị thị Duy-thức tánh

       Dĩ hữu sở đắc cố

       Phi thật trụ Duy-thức. 

       Nghĩa là: nếu hành-giả hiện tiền còn phần nào chấp mình có chứng Duy-thức tánh, thì chưa phải thật chứng Duy-thức tánh, vì còn vọng-chấp có “sở đắc” vậy. 

       Nếu Như-Lai có thành Phật, tất nhiên phải có chúng-sanh chưa thành Phật, thế thì bốn tướng: ngã, nhơn v.v… đua nhau sanh khởi.  Nếu còn ngã, nhơn v.v… thì không phải là Phật. 

       Nếu Như-Lai có nói Pháp, tất nhiên phải có chúng-sanh nghe pháp.  Nếu còn có kẻ nói người nghe, tức nhiên còn nhơn, ngã, bỉ, thử.  Nếu còn ngã, nhơn thì không phải là thuyết Phật pháp.  Bởi thế, nên Phật thuyết pháp 49 năm, mà rốt cuộc Phật nói: “Ta không nói một chữ”. 

       Ðức Lão-Tử nói:  “Cái “đạo” mà có thể nói được, thì không phải thật là đạo.  Cái “tên” mà có thể kêu gọi được, thì không phải thật là “tên” (Ðạo khả đạo, phi thường đạo giả, danh khả danh, phi thường danh). 

       Kinh chép:  “Một hôm, ông Tu-Bồ-Ðề ngồi yên lặng dưới gốc cây.  Trời Ðế-Thích đến rưới hoa cúng-dường.  Ông Tu-Bồ-Ðề hỏi: “Ai rãi hoa và rãi hoa để làm gì?”  Trời Ðế-Thích thưa: “Ngài nói kinh Bát-Nhã hay quá! Con đến rãi hoa cúng-dường”.  Ông Tu-Bồ-Ðề nói: “Ta không nói kinh Bát-Nhã”.  Trời Ðế-Thích thưa: “Ngài không nói, con không nghe”. 

       Kết luận:  “Không nói Bát-Nhã và không nghe Bát-Nhã”, như thế mới thật là “nói Bát-Nhã và nghe Bát-Nhã”. 

       Ông Tu-Bồ-Ðề đã hiểu: “Phật pháp” không thể nghĩ bàn, không thể chấp thủ, chẳng phải “có”, chẳng phải “không”, không phải “chánh pháp” và cũng không phải “phi chánh pháp”; nên bạch Phật rằng: “Như-Lai không thành Phật và Như-Lai cũng không thuyết pháp”.

       Tóm lại, phải rời các vọng chấp, không còn dùng tâm suy nghĩ và lời nói luận bàn, mới thật là “thành Phật” và “thuyết pháp”. 

12.  PHẬT-PHÁP KHÔNG CÓ SAI KHÁC, DO TRÌNH-ÐỘ CỦA CHÚNG-SANH MÀ THẤY CÓ SAI KHÁC. 

Ông Tu-Bồ-Ðề bạch Phật: 

-          Phật pháp đã như thế, tại sao lại có các quả thánh hiền cao thấp khác nhau? 

Phật dạy: 

-          Vì trình-độ của chúng-sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp (vô-vi) có sai khác. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn nầy phá cái chấp “Phật pháp có sai khác”. 

       Ðoạn trên đã nói: “Pháp của Như-Lai không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp và cũng không phải phi pháp”.  Phật pháp đã cao siêu như vậy, vượt ra ngoài nói năng và suy nghì, tại sao lại có các quả thánh hiền cao thấp khác nhau? 

       Phật giải-thích: “Vì trình-độ của chúng-sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác”. 

       Trong kinh thường thí-dụ: “Như ba con thú qua sông”.  Nghĩa là Phật pháp như con sông, không cạn không sâu.  Hành-giả như ba con thú lội qua sông: Con Dê thì lội ngập đầu (dụ cho Tiểu-thừa); con Nai thì lội ngập cổ (dụ cho Trung-thừa); con Voi thì lội ngập ống chân (dụ cho Ðại-thừa). 

       Phật pháp cao siêu huyền diệu, không thể nói năng và luận bàn, nên Ngài Xuyên Thiền-sư có làm bài tụng rằng: 

       Nguyên văn (dịch âm): 

               Hư không cảnh giới khởi tư lương

               Ðại đạo thanh u lý cánh trường

               Ðản đắc ngũ hồ phong nguyệt tại

               Xuân lai y cựu bách hoa hương.

       Dịch nghĩa: 

               Hư-không rộng rãi lớn bao-la

               Lý đạo lại càng quá thẳm xa

               Trăng, gió, nước hồ thường tự-tại

               Chào xuân đua nở trăm nghìn hoa. 

ÐẠI Ý 

       Hư-không đã rộng lớn bao-la không thể nghĩ bàn, Phật pháp lại càng cao siêu huyền-diệu rộng lớn hơn hư-không.  Cảnh vật thiên-nhiên của vũ-trụ, như trăng thanh gió mát, nước hồ phẳng-lặng, xuân về trăm hoa đua nở v.v… đều nói lên tinh-thần tự-tại giải-thoát của Phật pháp. 

       Kinh chép: “Nhứt thế chư Pháp vô phi Phật pháp”.  Nghĩa là “tất cả các pháp thế-gian cũng đều là Phật pháp”.  Nếu mê thì pháp thế-gian, còn ngộ là Phật pháp. 

GIẢI DANH TỪ 

       Chấp thủ:  Nắm giữ.

       Chánh pháp:  Pháp chơn-chánh.

       Phi pháp:  Pháp không chơnh-chánh.

       Vô vi:  Pháp không bị tạo tác thi vi, không sanh diệt, tức là chơn-như hay Phật tánh.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ XII)
04 - PHẦN CHÁNH TÔN (TIẾP THEO)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712