Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

03 - Tâm Sanh Diệt (Thức A Lại Da)

BÀI THỨ BA 

PHẦN GIẢI THÍCH 

II.              Tam Sanh-diệt (Thức A-lại-da) 

CHÁNH VĂN 

       Do Như-lai-tạng (chơn) mà có “Tâm sanh-diệt”; nghĩa là Chơn (không sanh-diệt), Vọng (sanh-diệt) hòa-hiệp, không phải “một”, không phải “khác” gọi là thức A-lại-da (tâm sanh-diệt).  Thức này tóm thâu tất cả các pháp và xuất sanh tất cả các pháp.  Thức này có hai nghĩa “Giác” và “Bất giác” (mê). 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn trước nói chỉ có một tâm mà chia ra làm hai phương-diện: Tâm Chơn-như và tâm Sanh-diệt. 

       Ðoạn này nói do Như-lai-tạng mà có “Tâm Sanh-diệt” tức là thức A-lại-da.  Vì thức A-lại-da là do chơn vọng hòa-hiệp, không phải một không phải khác, nên có hai nghĩa “Giác” và “Bất giác”.  Thức này do công-năng giữ-gìn tất cả các pháp và sanh ra các pháp. 

       Trên đây nói thức A-lại-da có hai nghĩa, không nên hiểu lầm thức A-lại-da có hai thứ “Giác” và “Bất giác” khác nhau; mà nên hiểu rằng: thức này có hai trạng-thái, tùy nhiễm-duyên thì trạng-thái “Bất giác” hiện, tùy tịnh-duyên thì trạng-thái “Giác” hiện.  Cũng như sáng với tối, chỉ là hiện-tượng của thái-hư mà thôi. 

       Chúng ta cũng nên phân-biệt ba danh-từ:  Chơn-như, Như-lai-tạng và thức A-lại-da là đồng hay khác, và liên-quan với nhau như thế nào. 

       “Chơn-như” là chỉ cho cái “Tổng-thể” của tâm; “Như-lai-tạng” là chỉ cho cái “Tổng-tướng” của tâm; “thức A-lại-da” là chỉ cho cái “Thể, Tướng và Dụng” về nhiễm và tịnh hòa-hiệp của tâm. 

       Chơn-như, dụ như “tánh ướt” của nước; Như-lai-tạng, dụ như “nước” (hình tướng của nước); A-lại-da, dụ như “sóng” (dụng của nước).  Trong sóng gồm có cả tánh ướt và nước.  Thể là thức A-lại-da (Tâm Sanh-diệt) gồm cả “Thể, Tướng và Dụng” về nhiễm và tịnh hòa-hiệp của tâm. 

       Tại sao không nói “do Chơn-như, có Tâm Sanh-diệt”, mà chỉ nói “do Như-lai-tạng có Tâm Sanh-diệt”?  - Vì Chơn-như là “Thể” của nhứt tâm, Như-lai-tạng là “Tướng” của nhứt tâm; Chơn-như thì thanh-tịnh không động, còn Như-lai-tạng tuy rằng cũng chơn-tịnh, nhưng còn bị phiền-não che phủ, làm nhơn cho động, nên chỉ nói “do Như-lai-tạng có tâm sanh-diệt là thức A-lại-da” mà không nói “do Chơn-như sanh ra thức A-lại-da” (Tâm Sanh-diệt). 

       Tâm Sanh-diệt này, có hai phần: 

1.      Sanh-diệt về phần lưu-chuyển sanh-tử.

2.      Sanh-diệt về phần hoàn-tịnh (trở lại Niết-bàn). 

GIẢI DANH-TỪ 

       Như-lai-tạng, có hai nghĩa:   

1.      Như-lai tại triền, nghĩa là tánh Phật (Như-lai) còn bị chứa trong vòng phiền-não nhiễm-ô.

2.      Như-lai xuất triền, nghĩa là tánh Phật (Như-lai) chứa đựng các pháp vô-lậu thanh-tịnh. 

       Song, trong kinh luận nói đến Như-lai-tạng, là phần nhiều dùng cái nghĩa “Như-lai tại triền” (tánh Phật bị chứa trong phiền-não). 

       Câu “Chơn-vọng hòa-hiệp, không phải một và không phải khác”: 

       “Chơn” là bản-thể, còn “Vọng” là hiện-tượng; bản-thể và hiện-tượng không rời nhau, nên nói “hòa-hiệp”.  Vì bản-thể không phải là hiện-tượng, nên nói “không phải một”; vì hiện-tượng và bản-thể không rời nhau, nên nói “không phải khác”. 

       Trong đây nói chữ “Hòa-hiệp”, không phải thật có hai vật riêng nhau, như sữa với nước hòa-hiệp lại, mà chính là bản-thể với hiện-tượng không rời nhau, nên tạm gọi là “hòa-hiệp”. 

       A-lại-da:  Trong luận này, chữ “thức A-lại-da”, chúng ta phải hiểu tức là “thức A-đà-na” mới không ngại.  Căn-cứ theo luận Duy-thức, khi đến quả A-la-hán hay Bát-địa, thì thức A-lại-da không còn (A-la-hán vị xả); vì hai vị này đã trừ ngã-chấp, nên thức này không còn gọi là A-lại-da, mà chỉ gọi thức A-đà-na (thức trì-chủng). 

       Còn trong luận này, thì nói:  Từ phàm-phu cho đến quả Phật đều có thức A-lại-da, vì nó duy-trì cả thánh và phàm.  Vì thế nên chữ “A-lại-da” ở luận Khởi-tín này, tức là thức “A-đà-na” trong luận Duy-thức vậy.  Trong luận Duy-thức chép: “Thức A-đà-na có công-năng duy-trì chủng-tử của các pháp nhiễm tịnh, thánh phàm v.v…”

NÓI VỀ NGHĨA GIÁCcó 5 tên

CHÁNH VĂN 

       “Giác” là chỉ cho bản-thể chơn-tâm lìa các vọng-niệm, nó khắp giáp tất cả, rộng lớn như hư-không; cũng gọi là “Pháp-thân bình-đẳng của Như-lai”.  Pháp-thân này, tất cả chúng-sanh sẵn có, nên gọi là “Bản-giác” (tánh Phật sẵn có). 

       Vì đối với “Thỉ-giác” nên gọi là “Bản-giác”; song Thỉ-giác tức là Bản-giác.  Nghĩa là từ Bản-giác mà có Bất-giác (mê); do Bất-giác nên có Thỉ-giác (mới giác-ngộ); giác-ngộ chưa hoàn-toàn thì gọi là Phần-giác (giác-ngộ từng phần); giác-ngộ được hoàn-toàn thì gọi là Cứu-cánh-giác. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này nói về nghĩa “Giác” (sáng-suốt) tức là tánh Phật sẵn có của chúng-sanh.  Tánh Phật này ở nơi chúng-sanh thì gọi là “Như-lai-tạng” (Như-lai bị phiền-não che giấu); còn ở nơi Phật thì gọi là “Pháp-thân thanh-tịnh”. 

       Tánh Phật tuy luân-chuyển trong sáu đường, mà không bao giờ mất, vẫn vắng-lặng thường còn và viên-mãn.  Chẳng qua chúng-sanh vì bị mây vô-minh che phủ, nên trăng Phật-tánh này chẳng hiện được. 

       Tất cả chúng-sanh từ hồi nào đến giờ, vì không rời vọng-niệm, nên tuy trọng ngày ở trong tánh Phật mà chẳng tự biết; nếu khi rời vọng-niệm rồi, thì tánh Phật này sáng soi, rỗng suốt khắp giáp tất cả như thái-hư.  Lúc bấy giớ chỉ còn có tánh Phật thuần chơn, gọi là “Pháp-thân bình-đẳng của Như-Lai”. 

       Vì căn-cứ theo tánh Phật sẵn có của chúng-sanh, nên gọi là “Bản-giác”.  Bởi thế nên Khế-kinh nói: 

       “Tất cả chúng-sanh đã thành Phật từ lâu”, và nói:

       “Ta thành ngôi Chánh-giác trong tâm của chúng-sanh”. 

       Song “Giác” có nhiều tên:  Bản-giác, Bất-giác, Thỉ-giác, Phần-giác và Cứu-cánh-giác.  Vì theo mỗi khía-cạnh mà chia ra làm năm tên, chớ không phải thật có năm cái “Giác” khác nhau. 

GIẢI DANH-TỪ 

       Pháp-thân bình-đẳng:  Dùng pháp-giới-tánh làm thân, nên gọi là “Pháp-thân”.  Vì Pháp-thân này, ở tại phàm không bớt, ở nơi thánh không thêm, nên gọi là “Bình-đẳng”.

       Bản-giác:  Sẵn có giác-ngộ, tức là chỉ cho tánh Phật sẵn có của chúng-sanh. 

       Bất-giác:  Không giác-ngộ (mê).  Chúng-sanh tuy sẵn có tánh Phật, như không tự giác-ngộ. 

       Thỉ-giác:  Mới giác-ngộ.  Nhờ sự tu học, nên hành-giả mới giác-ngộ được tánh Phật. 

       Phần-giác:  Giác-ngộ từng phần.  Hành-giả tu-hành trải qua từng bực, được sự giác-ngộ từng phần. 

       Cứu-cánh-giác:  Giác-ngộ rốt-ráo (tức là Phật). 

THỈ-GIÁC CÓ 4 LỚP, TỪ THÔ ÐẾN TẾ 

CHÁNH VĂN 

       Hỏi:  Nghĩa này thế nào? 

       Ðáp:  Có 4 lớp như sau: 

  1. Giác-ngộ “niệm DIỆT”.  

Chúng phàm-phu (Tiểu-thừa thì hữu-học, Ðại-thừa thì Thập-tín) giác-ngộ vọng-niệm trước đã khởi ác, nên ngăn dứt vọng-niệm sau, không cho sanh-khởi ác nữa (niệm diệt).  Vì in như đã giác-ngộ, nhưng thật ra chưa giác-ngộ, nên gọi chúng phàm-phu là Bất-giác. 

  1. Giác-ngộ “niệm DỊ” (hoại).  

Hàng sơ phát-tâm Bồ-tát (Tam-hiền) và Nhị-thừa (vô học), dùng trí-huệ quán-sát, giác-ngộ được “niệm DỊ” (dị tướng vô-minh) và không còn tướng “niệm DỊ”.  Hai vị này vì đã xả được tướng phân-biệt chấp trước về phần thô trọng, nên gọi là “Tương-tợ giác” (tương-tợ như đã giác-ngộ). 

  1. Giác-ngộ “niệm TRỤ”.  

Hàng Thập-địa Bồ-tát (Bồ-tát đã chứng Pháp-thân) giác-ngộ được “niệm TRỤ” (trụ tướng vô-minh) và không còn tướng “niệm TRỤ”.  Vị này vì đã lìa được tướng phân-biệt về thô niệm, nên gọi là “Tùy phần giác” (giác-ngộ từng phần). 

  1. Giác-ngộ “niệm SANH”.  

Hàng Ðẳng-giác Bồ-tát (Ðịa-tận Bồ-tát) do các phương-tiện tu hành đã đầy đủ, nhứt niệm hợp với Chơn-tâm, nên giác-ngộ được tâm sơ-khởi (sanh tướng vô-minh), và không còn tướng sơ-khởi.  Vì vị này đã xa-lìa vọng-niệm vi-tế (vi-tế vô-minh) ngộ-nhập chơn-tâm thường-trụ, nên gọi là “Cứu-cánh-giác” (giác-ngộ rốt-ráo). 

Bởi thế nên trong kinh chép:  “Nếu chúng-sanh nào quán “vô-niệm” (không vọng-niệm) thì chúng-sanh đó đã hướng về trí Phật”. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Bồ-tát Mã-minh dùng bốn danh-từ: Niệm-sanh, Niệm-trụ, Niệm-dị, Niệm-diệt để nói lên vô-minh có thô tế, sâu cạn và chỉ rò người tu-hành ở địa-vị nào mới diệt được thứ vô-minh nào.      

       Trong đoạn này nói “chúng phàm-phu”, thật ra không phải hoàn-toàn là phàm-phu, mà chính là chỉ cho, bên Ðại-thừa thì hàng Thập-tín, còn Tiểu-thừa thì ba quả trước, thuộc về hữu-học.  Vì các vị này chưa được dự vào hạng Hiền (tam hiền) và Thánh (thập thánh) nên bị gọi là Phàm-phu. 

       Chúng phàm-phu này giác-ngộ được “Niệm-diệt” tức là phá trừ “Diệt tướng vô-minh” (vô-minh thô sơ bên ngoài).  Nếu so với Lục-thô, thì “Niệm-diệt” này thuộc về hai món thô sau là:  Khỏi-nghiệp-tướng và Nghiệp-hệ-khổ-tướng (sẽ giải ở bài thức năm).  Vì sự phá trừ vô-minh này không thấm vào đâu, và đối với việc giác-ngộ chơn-tâm còn xa-xuôi lắm, nên gọi họ là “Bất-giác” (chưa giác-ngộ). 

       Hàng Nhị-thừa và Bồ-tát ở vị Tam-hiền (Thập-trụ, Thập-hạnh và Thập-hồi-hướng) giác-ngộ được “Niệm-dị”, tức là phá trừ “Dị-tướng vô-minh” (vô-minh thô).  Nếu so với Lục-thô thì “Niệm-dị” này thuộc về hai món thô bực trung là:  Chấp thủ-tướng và Kế-danh-tự-tướng (sẽ giải ở bài thứ năm).  Vì các vị này tương-tợ như giác-ngộ được chơn-tâm và chứng được pháp-thân thanh-tịnh, nhưng chưa phải thật ngộ và thật chứng, nên gọi họ là “Tương-tợ giác”. 

       Hỏi:  Thế nào là giác-ngộ “Niệm-dị” và không còn tướng “Niệm-dị”? 

       Ðáp:  Bồ-tát sơ phát-tâm, dùng trí-huệ quán-sát.  Ngã (thân tâm) và Pháp (vũ-trụ) đều do nhơn-duyên sanh, nên đoạn-trừ hai món vọng-chấp phân-biệt thật-ngã và thật-pháp về phần thô, đó là “Giác-ngộ niệm-dị”.  Ðến khi Bồ-tát không còn thấy có tướng Ngã, tướng Pháp, thế gọi là “không còn tướng niệm-dị”. 

       Hỏi:  Sao gọi là “Phân-biệt chấp trước về phần thô trọng”? 

       Ðáp:  Ngã-chấp và Pháp-chấp có chia ra làm hai phần: 1.- Thô trọng, tức là phân-biệt Ngã-chấp và Pháp-chấp; phần này dễ trừ.  2.- Vi-tế, tức là cu-sanh Ngã-chấp và Pháp-chấp, phần này khó trừ. 

       Hàng Thập-địa Bồ-tát vì đã chứng Pháp-thân thanh-tịnh, nên cũng gọi là “Pháp-thân Bồ-tát”.  Các vị Bồ-tát này giác-ngộ được “Niệm-trụ”, tức là phá trừ “trụ tướng vô-minh” (tế vô-minh).  Nếu so với Lục-thô ở bài sau, thì thuộc về hai món thô đầu là: Trí-tướng và Tương-tục-tướng. 

       Bồ-tát phá một phần vô-minh thì chứng được một phần Pháp-thân, gọi là tên Sơ-địa; phá hai phần vô-minh thì chứng hai phần Pháp-thân, gọi là lên Nhị-địa; cho đến phá mười phần vô-minh, thì chứng được mười phần Pháp-thân, gọi là lên Thập-địa Bồ-tát.  Vì Bồ-tát phá vô-minh từng phần và giác-ngộ từng phần, nên gọi là “Tùy phần giác”. 

       Các vị Bồ-tát này, vì tâm-niệm còn trụ ở năng-sở đối đãi, chưa dứt trừ được, nên gọi là “Trụ-tướng vô-minh”.  Ðến khi Bồ-tát nhập Chơn-như quán, chỉ nhứt-tâm chánh-niệm Chơn-như, không còn tướng năng sở đối-đãi, nên gọi là “Không còn tướng niệm-trụ”.  Như thế là lìa được tướng phân-biệt về thô-niệm (vô-minh thô). 

       Sở-dĩ gọi “Thô”, là vì không tế-nhị bằng “sanh tướng vô-minh” (vô-minh rất vi-tế); kỳ thật đây cũng là một thứ vô-minh vi-tế, rất khó trừ. 

       Tóm lại, từ phàm-phu (Thập-tín) cho đến địa-vị Pháp-thân Bồ-tát (Thập-địa), về sự phá trừ vô-minh của mỗi bực có thô và tế khác nhau.   

  1. Chúng phàm-phu đối với cảnh chấp có và thấy vọng-niệm diệt rồi, đè nén không cho sanh khởi. 
  2. Hàng Nhị-thừa và Tam-hiền Bồ-tát, thì quán ngã-pháp đều không, nhưng còn cái “Niệm không”. 
  3. Ðến bực Thập-địa Bồ-tát, thì cái “Tâm-niệm chấp không” cũng không còn; nghĩa là không còn cái “Năng-niệm”.  

Nói rằng bực Ðẳng-giác Bồ-tát, giác-ngộ được “niệm sanh” tức là nói vị Bồ-tát nầy phá trừ được “sanh-tướng vô minh” (Vô-minh rất vi-tế).  Nghĩa là các vị Bồ-tát tu-hành, đến lúc chơn cùng hoặc tận, tột bực Thập-địa, chứng lên vị Ðẳng-giác, khi ấy Bồ-tát dùng trí Kim-cang đoạn trừ “sanh tướng vô-minh” (giác-ngộ được niệm sanh) xa lìa các vọng-hoặc rất vi-tế, và nhứt niệm hiệp với tâm-thể Chơn-như, nên không còn “tướng sơ-khởi”; khi đó Bồ-tát chứng lên quả Diệu-giác (Phật) gọi “Cứu-cánh giác”. 

       Hỏi:  Phải chăng trong một niệm, có sanh, trụ, dị, diệt; chúng phàm-phu giác-ngộ khi “Niệm diệt”; Nhị-thừa giác ngộ khi “Niệm dị”; Thập-địa Bồ-tát giác ngộ khi “Niệm trụ”; Ðẳng-giác Bồ-tát giác ngộ khi “Niệm sanh”? 

       Ðáp:  Hiểu như vậy không được đúng lắm; đây nói sanh, trụ, dị, diệt là chỉ cho vọng-niệm có phần thô và tế.  Chúng phàm-phu chỉ giác ngộ vọng niệm về phần thô bên ngoài, gọi là “Niệm diệt”, Nhị-thừa giác ngộ vọng niệm về phần tế hơn gọi là “Niệm dị”.  Thập-địa Bồ-tát giác ngộ vọng niệm lại tế hơn nữa, gọi là “Niệm trụ”.  Ðến bực Ðẳng-giác Bồ-tát giác ngộ vọng niệm lại rất vi-tế, gọi là “Niệm sanh”. 

       Thí như mặt nước bằng phẳng là dụ tâm-thể thanh-tịnh vô-niệm.  Mặt nước vừa dợn động, là dụ “Niệm sanh”.  Sóng nổi lăng-tăng là dụ “Niệm trụ”.  Sóng nhấp nhô, dụ “Niệm dị”.  Sóng nổi ba-đào là dụ “Niệm diệt”. 

       Chúng tôi đem 4 niệm trong bài nầy, phối-hiệp với tam tế lục thô ở bài sau, để quý vị dễ hiểu. 

       Tam-tế:

       Niệm sanh:   1.   Vô-minh-nghiệp-tướng.

               Niệm trụ:     2.   Năng-kiến-tướng

                             3.   Cảnh-giới-tướng. 

       Lục thô:

               Niệm trụ:      1.   Trí-tướng.

2.   Tương-tục-tướng. 

Niệm dị:       3.   Chấp-thủ-tướng.

                             4.   Kế-danh-tự-tướng. 

Niệm diệt:    5.   Khởi-nghiệp-tướng.

                             6.   Nghiệp-hệ-khổ-tướng.              

       Hỏi:  Làm sao để được trí Phật? 

       Ðáp:  Trí Phật thanh-tịnh không các vọng-niệm, muốn được trí Phật, hành-giả phải “vô-niệm”.  Trong kinh Lăng-già quyển hai có chép:  “Nếu chúng-sanh nào quán vô-niệm, thì chúng-sanh ấy sẽ hướng về trí Phật”. 

       Ngài Ðức-Thanh giải rằng:  “Vô-niệm là con đường tắt để thành Phật…” và “… không những Bồ-tát tu-hành đoạn trừ phiền-não, đến vô-niệm mà gọi là “Cứu-cánh-giác”; tức như chúng-sanh nào, ngày đêm quán vô-niệm, thì chúng-sanh ấy mỗi niệm đã hướng về trí Phật”. 

       Trong luận nầy nói hai chữ “Vô-niệm” đồng với bốn chữ “Bất tùy phân-biệt” trong Kinh Lăng-nghiêm.  Chữ “Vô-niệm” nghĩa là không khởi vọng-niệm.  Nếu vọng-niệm không khởi, thì tâm được định, do tâm định nên mới phát sanh ra trí-huệ thanh-tịnh của Phật. 

       Chữ “Bất tùy phân-biệt”, nghĩa là không theo trần cảnh khởi phân-biệt.  Không khởi phân-biệt thì vọng-niệm chẳng sanh; vọng-niệm chẳng sanh thì chơn-tâm tự hiện ra. 

       Bởi thế nên luận nầy nói chữ “Vô-niệm”, Kinh Lăng-nghiêm nói “Bất tùy phân-biệt”; hai danh-từ tuy khác, song đồng một ý-nghĩa và đồng một con đường tắt, để đi đến quả Phật. 

VỌNG NIỆM HẾT (VÔ-NIỆM) THÌ CHƠN-TÂM HIỆN 

CHÁNH VĂN 

       Lại nữa, thật ra Tâm không có tướng sơ-khởi, mà nói rằng “biết được tướng sơ-khởi của tâm”, đó tức là được “vô niệm”.  Tất cả chúng-sanh từ hồi nào đến giờ, vì chưa từng xa-lìa vọng niệm tương-tục (chưa được vô-niệm), nên không được gọi là “Giác”, mà chỉ gọi là “vô-thỉ vô-minh”. 

       Nếu người được vô-niệm (ngộ chơn-tâm) thì các tướng sanh, trụ, dị, diệt của tâm đều hết, chỉ còn một tâm-thể vô-niệm (chơn-tâm).  Bởi thế nên Thỉ-giác không khác với Bản-giác.  Vì vọng niệm nên bốn tướng: Sanh, Trụ, Dị và Diệt đồng thời nương nhau mà có, và đều không tự-lập; khi vọng niệm hết, thời bốn tướng không còn, chỉ một tánh-giác (chơn-tâm), xưa nay bình đẳng. 

LƯỢC GIẢI 

       Tất cả chúng-sanh từ hồi nào đến giơ, do một niệm mê nên bốn tướng: sanh, trụ, dị, diệt nhứt thời nương nhau khởi hiện, không có trước sau.  Vì vọng niệm tương-tục mãi, làm cho chúng-sanh không ngộ được chơn-tâm (vô-niệm) của mình, nên gọi là “vô-thỉ vô-minh”.  Bởi thế nên có chia ra Bản-giác và Thỉ-giác.

       Trái lại, bực Ðẳng-giác Bồ-tát, đã diệt hết vọng niệm, ngộ được chơn-tâm thường-trú của mình, nên bốn tướng không còn, mà chỉ còn một tánh sáng-suốt bình đẳng không vọng niệm, gọi là “Cứu-cánh-giác”.  Bởi vậy nên “Thỉ-giác” cũng tức là “Bản-giác”. 

GIẢI DANH-TỪ 

       “Tướng sơ khởi” tức là chơn-tâm, mà chơn-tâm thì vô-tướng và vô-niệm.  Người được vô-niệm tức là ngộ chơnt-âm; phải ngộ được chơn-tâm mới gọi là “Cứu-cánh-giác”. 

       “Bản-giác” tức là tâm tánh xưa nay vốn thanh-tịnh sáng-suốt, trái với vô-minh bất-giác (mê). 

       “Thỉ-giác” là mới giác ngộ.  Hành-giả dùng quán-trí trừ các vọng niệm, mới vừa giác-ngộ tâm-thể không có bốn tướng, nên gọi là “Thỉ-giác”. 

       Nên biết, những danh-từ trên đây đều giả lập: “Bản-giác” là đối với “Thỉ-giác” mà lập, “Thỉ-giác” nhơn “Bất-giác” mà có, “Bất-giác” lại nhơn “Bản-giác” mà sanh.  Do đối đãi nhau nên giả lập ra có nhiều tên, thật ra chỉ có tánh-giác mà thôi. 

       (Ðoạn này nói về “Thỉ-giác”, đoạn sau nói đến “Bản-giác”). 

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ X & XI)
04 - NÓI VỀ NGHĨA "GIÁC"
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712