Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

02 - Tâm Chơn Như (Chơn Tâm)

BÀI THỨ HAI

A.   NÓI RÕ NGHĨA CHÁNH

CHÁNH VĂN 

       Cái tâm này (chúng-sanh tâm) có hai phần:  1. – Tâm chơn-như, 2. – Tâm sanh-diệt.  Hai tâm này không rời nhau và đều bao trùm tất cả pháp. 

LƯỢC GIẢI 

       Chương này giải-thích tâm chúng-sanh là pháp Ðại-thừa.  Pháp Ðại-thừa có hai phần:  Chơn-như và Sanh-diệt.  Chơn-như là “Thể” rộng lớn của tâm; Sanh-diệt là “Tướng” và “Dụng” rộng lớn của tâm.  Phải phân chia làm hai phương-diện như vậy, mới rõ được Thể, Tướng và Dụng của tâm. 

       Nếu đứng về “Thể chơn-như”, thì suy-nghĩ không trúng, luận bàn chẳng nhầm, lìa các văn-tự, ly tất cả tướng; như thế làm sao có các pháp sai-biệt được.  Bởi thế nên phải nói đến Tướng và Dụng là “môn sanh-diệt” mới rõ được hành-tướng sai-biệt của “Tâm chúng-sanh”. 

       Chơn-như là “Thể”, còn Sanh-diệt là “Tướng” và “Dụng”.  Tướng và Dụng không rời Thể, Thể không rời Tướng và Dụng; cũng như nước không rời sóng, sóng không rời nước.  Bởi Thể, Tướng và Dụng không rời nhau, nên mỗi một phần đều bao hàm được tất cả pháp. 

       Vì Thể và Dụng không rời nhau, nên đứng về phần Chơn-như mà luận, thì tuy “thanh-tịnh bất-biến”, mà vẫn tùy duyên sanh-diệt; còn đứng về phần Sanh-diệt mà xem, thì tuy “tùy duyên sai-biệt” mà vẫn như như bất-biến. 

I.                  Tâm Chơn-như.

CHÁNH VĂN 

       Tâm Chơn-như là cái tâm tánh bất sanh bất diệt, Thể và Tướng nó to lớn bao trùm tất cả các pháp (nhứt pháp-giới đại tổng-tướng pháp môn thể). 

       Sở-dĩ các pháp sai khác là do vọng-niệm; nếu rời vọng-niệm thì không còn các cảnh tướng sai-khác.  Bởi thế nên tất cả pháp từ hồi nào đến giờ, không thể dùng danh-tự để kêu gọi, không thể dùng lời nói luận bàn, không thể dùng tâm suy-nghĩ được, không có biến-đổi và cũng không phá-hoại, vì nó rốt-ráo bình-đẳng, chỉ có một “Tâm Chơn-như” mà thôi. 

LƯỢC GIẢI 

       Tâm Chơn-như này, tánh không sanh-diệt và bao trùm tất cả nhơn-quả, thánh phàm, y-báo chánh-báo v.v…  Bởi thế nên nguyên-văn chữ Hán gọi là “nhứt pháp-giới đại tổng-tướng pháp-môn thể”. 

       Vì vọng-niệm, nên thấy có tất cả các pháp sai khác; cũng như vì mắt nhặm nên thấy có hoa đốm giữa hư-không.  Nếu như lìa vọng-niệm rồi, thì không có tất cả cảnh-giới sai khác, mà chỉ còn một “Tâm Chơn-như”; cũng như mắt hết nhặm thì chỉ còn hư-không một màu trong tịnh. 

       Bởi tất cả pháp là “Tâm Chơn-như”, nên không thể phá-hoại, không thể dùng lời nói luận-bàn, không thể dùng danh-tự để kêu gọi và cũng không thể dùng tâm suy-nghĩ được.  Tư hồi nào đến giờ, nó rốt-ráo bình-đẳng, không có sai-khác.  Bởi thế nên trong Khế-kinh chép: 

       “Thị pháp trụ pháp vị

         Thế-gian tướng thường-trụ”. 

       Nghĩa là:  Pháp nào vẫn an-trụ địa-vị của pháp nấy; tướng thế-gian là tướng thường-trụ. 

GIẢI DANH-TỪ 

       Tâm Chơn-như:  Vì tâm này không hư-ngụy, nên gọi là “Chơn”, không bị thời-gian thay-đổi, không-gian chuyển dời, từ hồi nào đến giờ nó vẫn như thế, nên gọi là “Như”.  Tâm Chơn-như  cũng gọi là “Chơn-tâm” hay “Viên-giác”. 

       Nhứt pháp-giới đại tổng-tướng pháp-môn thể:  Câu này nghĩa lý rất sâu rộng, xin giải sơ-lược:  Tâm Chơn-như là Thể chung của “nhứt pháp-giới”.  Chữ “Nhứt” là chỉ cho sự bình-đẳng bất nhị, thuộc về lời nói ngăn chấp, chớ không phải lời nói tiêu-biểu.  Chữ “Giới” là chỉ cho “tâm Chơn-như” này, nó là “nhơn” là “giống” là “bản-năng” sanh ra tất cả các pháp, nên gọi là “như pháp-giới”.  Nhứt pháp-giới  là toàn-tánh của vũ-trụ.  Ở nơi nhứt pháp-giới này, có thể phân ra tổng-tướng (thể) và biệt-tướng (muôn pháp sai khác). 

       Tâm Chơn-như là “Tổng-tướng” (tướng chung) của tất cả pháp; vì thể-tánh nó bình-đẳng, song cũng tóm thâu tất cả tướng, nên gọi là “Ðại”. 

       Chữ “Pháp” nghĩa là:  “Giữ-gìn tự-tánh và làm cho người hiểu biết”.  Chữ “Môn” là nghĩa ra vào thông-suốt.  Tất cả chúng-sanh có thể do pháp-môn này tu-hành, đến được mục-đích cứu-cánh; nếu rời “Ðại tổng-tướng pháp-môn” này, thì không thể đạt đến quả-vị Phật.  Nói tóm lại: 

       Nhứt pháp-giới là “Thể” của tâm Chơn-như. 

       Ðại tổng-tướng là “Tướng” của tâm Chơn-như. 

       Pháp-môn là “Dụng” của tâm Chơn-như. 

CHÁNH VĂN 

       Tất cả những lời nói, đều do vọng-niệm phân-biệt mà sanh, chỉ có giả-danh chớ không thật thể.  Cho đến danh-từ Chơn-như cũng không thực; chẳng qua là một danh-từ túng cùng của lời nói, dùng để trừ bỏ các danh-từ khác (vọng) mà thôi (nhơn ngôn khiển ngôn).  Song cái “Thể” của Chơn-như không thể trừ bỏ và cũng không thể dựng lập.  Phải biết:  tất cả các pháp cũng không thể trừ bỏ dựng lập, vì đều là “Chơn” vậy, và cũng không thể dựng lập, vì đều là “Như” vậy.  Bởi tất cả các pháp đều là Chơn-như, nên không thể nói bàn và suy-nghĩ được. 

LƯỢC GIẢI 

       Tất cả những lời nói phô, đều do vọng-niệm phân-biệt; danh-từ chỉ là hư-giả, chớ không có thật thể.  Cho đến cái danh-từ Chơn-như cũng như là hư-giả mà thôi.  Danh-từ Chơn-như hay Phật là danh-từ cuối cùng trong các danh-từ, tạm đặt ra như thế để trừ các danh-từ vọng-nhiễm của thế-gian.  Cũng như ông thây giáo, tạm dùng tiếng gõ bảng để trừ tiếng ồn của học-sinh (dĩ ngôn biệt ngôn).  Ðến khi tiếng ồn của học-sinh hết, thì tiếng gõ bảng của thầy giáo cũng không còn.  Cũng như khi vọng mất, chúng-sanh hết, thì Chơn-như hay Phật cũng chẳng còn. 

       Song, chỉ bỏ danh-từ (Chơn-như) hư-giả, chớ thể-tánh chơn-như thì không thể bỏ hay lấy.  Cho đến các pháp cũng không thể bỏ và lấy được.  Vì các pháp đều là “Chơn”, nên không thể bỏ, và “Như” nên không thể lấy.  Bởi các pháp đều chơn-như, nên không thể dùng lời nói luận-bàn hay tâm suy-nghĩ đến được.

       Tóm lại, vì vọng-niệm phân-biệt, nên thấy có các pháp sai-biệt.  Nếu vọng-niệm phân-biệt hết, thì tất cả các pháp không còn những tướng sai-biệt, mà đều là chơn-như.  Bởi các pháp đều là Chơn-như, nên nói-năng không trúng, suy-nghĩ chẳng nhầm và cũng không thể lấy hay bỏ được. 

CHÁNH VĂN 

       Hỏi:  Nếu “Chơn-như”, mà không thể dùng lời nói luận-bàn hay tâm suy-nghĩ, thì chúng-sanh làm sao tùy-thuận và ngộ-pháp được? 

       Ðáp:  Nếu người nào biết tất cả pháp, tuy có nói bàn, mà không có “năng nói” và “sở nói”; tuy có suy-nghĩ, mà không có “năng suy nghĩ” và “sở suy nghĩ”, thì người ấy được tùy thuận Chơn-như. 

       Còn người nào lìa các niệm (vọng-niệm) thì người đó được nhập Chơn-như. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Luận-chủ lập lời vấn đáp, để giải-thích sự nghi-ngờ của độc-giả. 

       Hỏi:  Nếu Chơn-như mà không thể dùng lời nói luận-bàn và tâm suy nghĩ được thì, chúng-sanh làm sao tùy-thuận và ngộ-nhập Chơn-như? 

       Ðáp:  Nếu người nào biết tất cả pháp, tuy có nói-năng suy nghĩ, mà không chấp nơi nói-năng suy nghĩ, thì người đó được tùy thuận Chơn-như.  Tiến lên một từng nữa, nếu người nào lìa các vọng-niệm, thì người ấy nhập được Chơn-như.  Nghĩa là “Vọng” hết, thì “Chơn” hiện.  Ðoạn này đồng một ý-nghĩa với bốn chữ “bất tùy phân-biệt” trong Kinh Lăng-nghiêm (Xem quyển Ðại-cương Lăng-nghiêm, in lần thứ ba, ở trang 118 hàng 9 đến hàng 19). 

CHÁNH VĂN 

       Lại nữa, nếu căn-cứ trên danh-từ (ngôn thuyết) mà phân-biệt, thì chữ Chơn-như có hai nghĩa: 

1.      THẬT KHÔNG (như thật không). 

Tức là chỉ nói cái thể-tánh rốt-ráo chơn-thật của Chơn-như.  Nghĩa là:  từ hồi nào đến giờ, Chơn-như không có các tâm niệm hư vọng, không có tất cả các tướng sai biệt, nói chung là thật không có các pháp tạp nhiễm. 

Phải biết:  Chơn-như phi tướng “có”, phi tướng “không”; phi tướng “chẳng phải có”, phi tướng “chẳng phải không”; phi tướng cũng có và cũng không”.  Phi tướng “một”, phi tướng “khác”; phi tướng “chẳng phải một, chẳng phải khác”; phi tướng “cũng một cũng khác”. 

Nói tóm lại, vì Chơn-như không có tất cả các vọng niệm phân biệt của chúng sanh, nên gọi rằng “thật không”.  Nếu khi vọng-niệm phân-biệt hết rồi, thì cũng không còn cái gì gọi là “không” nữa. 

LƯỢC GIẢI        

       Ðứng về phương-diện lý-tánh tuyệt-đối, thì Chơn-như không thể kêu gọi là gì được (ly danh-tự tướng), không thể dùng lời nói luận-bàn (ly ngôn thuyết tướng) và cũng không thể dùng tâm suy-nghĩ được (ly tâm duyên tướng).  Song, nếu căn-cứ trên văn-tự lời nói và luận, thì Chơn-như có hai nghĩa:  1.- Thật không và 2.- Thật có. 

       Ðoạn này nói về nghĩa “thật không” (ly nhứt thế tướng), tức là chỉ cho cái “thể Chơn-như”, từ hồi nào đến giờ, nó không có các vọng-niệm, không có các nhiễm-pháp và không có các tướng sai khác.  Nó phi tất cả các tướng: Có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, cho đến phi tướng đồng, tướng dị và tướng không đồng không dị v.v… 

CHÁNH VĂN 

2.      THẬT CÓ (như thật bất không). 

Tự thể Chơn-như, thật có đủ công-đức vô-lậu (tức nhứt thế pháp).  Bởi Chơn-như không có các vọng-niệm, nên tức là Chơn-tâm.  Cái Chơn-tâm này thường còn không biến-đổi và đầy-đủ các pháp thanh-tịnh, nên nói “thật có” (bất không). 

Nhưng cái cảnh-giới “thật có” này, cũng không có hình tướng gì để nắm lấy được, vì nó lìa các vọng-niệm, nên chỉ có người tu chứng mới biết được thôi. 

LƯỢC GIẢI 

       Trong đoạn này nói:  “Chơn-như có hai nghĩa”, tức là ý nói Chơn-như có hai phương-diện, chớ không phải nói Chơn-như có hai thứ.  Ðoạn trên nói về phương-diện “thể tánh” của Chơn-như, thì không có các vọng-niệm, không có các pháp nhiễm-ô, tức là “ly nhứt thế tướng”, nên mới “thật không”. 

       Ðoạn này nói về phương-diện “tướng dụng” của Chơn-như, thì đầy-đủ vô-lượng hằng-sa công-đức, thế là “tức nhứt thế pháp”, nên nói “thật có”.  Nhưng cảnh-giới “thật có” này, không có hình tướng gì để chỉ bày ra được, vì đã lìa các vọng-niệm phân-biệt, nên chỉ có người chứng-ngộ mới biết được thôi.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ X & XI)
03 - TÂM SANH DIỆT (THỨC A LẠI DA)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712