Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

01 - Nhơn Duyên

LUẬN ÐẠI-THỪA KHỞI TÍN

-      Ngài Mã-Minh Bồ-tát tạo Luận.

-      Ngài Chơn-Ðế Tam-Tạng dịch chữ Phạn ra chữ Hán

-      Sa-môn Thích Thiện-Hoa lược dịch và lược giải. 

BÀI THỨ NHỨT 

NGUYÊN-NHÂN TẠO LUẬN NÀY 

       Trong khoảng 600 năm, sau khi Phật nhập-diệt, tại Ấn-độ, phần thì phái Tiểu-thừa nổi lên tranh-chấp, không tin lý Ðại-thừa, phần thì ngoại-đạo lập các tà-thuyết phá-hoại chánh-pháp; tình-trạng Phật giáo đen tối. 

       Ngài Mã-Minh Bồ-tát, trông thấy tình-trạng ấy rất đau lòng, nên tạo ra luận này, để xô tà đỡ chánh: trừ những nghi-ngờ của Tiểu-thừa, phá các tà-thuyết của ngoại-đạo, làm cho người phát-khởi lòng tin Ðại-thừa. 

GIẢI-THÍCH TÊN LUẬN ÐẠI-THỪA KHỞI TÍN 

Luận:   

Luận là luận-bàn lẽ tà-chánh, quyết-đoán điều nghi-ngờ và lựa-chọn những việc phải quấy. 

Ðại-thừa: 

Chữ “Ðại” là lớn, chữ “Thừa” là cởi.  Ðọc chữ “Thặng” nghĩa là cái xe.  Theo đây phải đọc là “Thặng” mới đúng, song vì thói quen nên đọc là “Thừa”. 

       Ðại-thừa có 5 nghĩa: 

  1. Vì đối với Tiểu nên gọi rằng Ðại.
  2. Quả Phật rộng lớn, thừa này sẽ đi đến quả Phật, nên gọi là Ðại-thừa.
  3. Chư Phật là bực Ðại-nhơn, song chẳng rời thừa này, nên gọi là Ðại-thừa.
  4. Các Bồ-tát là bực Ðại-sĩ, đều y theo thừa này mà tu-tập, nên gọi là Ðại-thừa.
  5. Vì thừa này rất rộng lớn, cứu độ chúng-sanh đông nhiều, nên gọi là Ðại-thừa.  

LUẬN NÀY LẤY GÌ LÀM ÐẠI-THỪA?

Luận này lấy tâm chúng-sanh làm Ðại-thừa.  Bởi tâm chúng-sanh: Thể nó lớn, Tướng nó to, Dụng nó đại, bao trùm tất cả các pháp thế-gian và xuất-thế-gian, nên gọi là Ðại-thừa. 

Trọng tâm của luận này là nói:  Thể, Tướng và Dụng của tâm chúng-sanh.  Vì tâm này là “Tổng-tướng” (Tướng chung) của tất cả thánh phàm, mê ngộ, nhơn quả v.v… cho nên trong luận này cũng gọi là: “Ðại Tổng-tướng pháp-môn thể”. 

Tâm này có nghĩa “vận-tải”:  Các Ðức Phật đều nương tâm này mà chứng Bồ-đề, Niết-bàn.  Bồ-tát nương tâm này mà rộng tu muôn hạnh: trên cầu quả Phật, dưới hóa-độ chúng-sanh.  Chúng-sanh cũng do tâm này mà trôi lăn trong vòng sanh-tử luân-hồi.  Vì thế nên gọi tâm này là Ðại-thừa. 

Do ngộ lý này, nên cổ-nhơn có làm bài kệ: 

Tam điểm như tinh tượng

Hoành câu tợ nguyệt tà

Phi mao tùng thử đắc

Tố Phật giả do tha. 

Dịch nghĩa:      

       Ba chấm như ngôi sao

       Uốn cong tợ trăng tà

       Chúng-sanh từ đây có

       Chư Phật cũng do đây. 

Khởi-tín: 

Luận này làm cho người phát-khởi lòng tin Ðại-thừa, nên gọi là “Ðại-thừa khởi tín”.  Ðáng lẽ phải nói: “Khởi Ðại-thừa tín”; nghĩa là khởi lòng tin Ðại-thừa; song vì chúng-sanh sau khi thấu rõ Ðại-thừa rồi, mới phát khởi lòng tin, nên gọi “Ðại-thừa khởi tín”. 

NỘI DUNG CỦA LUẬN NÀY 

       Ngài Mã-Minh Bồ-tát căn-cứ theo Kinh Lăng-Già, kinh Tư-Ích và các kinh Ðại-thừa mà tạo ra luận này.  Nội dung của luận này là phát-minh lý Duy-tâm hay Duy-thức đem về nhứt tâm, vạch rõ nguồn gốc mê ngộ, chỉ bày đường tắt tu hành, tóm các nghĩa-lý sâu rộng của Phật nói, làm cho người phát khởi lòng tin Ðại-thừa. 

NGÀI MÃ-MINH BỒ-TÁT      

Lý-lịch và tên: 

       Ngài Mã-minh Bồ-tát, người xứ Ba-la-nại, phía tây Thiên-trúc (Ấn-độ).  Ngài là Tổ thứ 12 ở Thiên-trúc, nối ngôi của Tổ thứ 11 là Phú-na-dạ-xa tôn-giả. 

       Vì có 3 nguyên-nhơn, nên gọi Ngài là Mã-minh: 

  1. Khi Ngài vừa sanh ra, thì các con ngựa trong xứ ấy đều buồn mà kêu to lên.
  2. Ngài đờn rất hay, mỗi khi Ngài đờn thì những con ngựa được nghe tiếng đờn đều buồn mà kêu lên.
  3. Khi thuyết-pháp, các con ngựa nghe đến tiếng Ngài, đều rơi nước mắt kêu to lên và không ăn.  Mặc dù người ta thử bỏ đói chúng hai ba ngày, rồi đến lúc Ngài thuyết-pháp mới bỏ cỏ cho ăn, chúng cũng không ăn.  Bởi thế nên gọi là Mã-minh (ngựa kêu).  

NGUYÊN NHƠN NGÀI NGỘ ÐẠO 

       Khi gặp Tổ Phú-na-dạ-xa tôn-giả: 

       Ngài hỏi:  Làm sao biết Phật?

       Tổ đáp:   Không biết là biết Phật.

       Ngài hỏi:  Không biết làm sao biết là Phật?

       Tổ đáp:  Không biết làm sao biết không phải là Phật.

       Ngài nói:  Nghĩa của Tổ là nghĩa cưa.

       Tổ nói:  Nghĩa của ông là nghĩa cây.

       Tổ hỏi tiếp:  Thế nào, ông nói nghĩa của tôi là nghĩa cưa?

       Ngài đáp:  Vì Tổ nói qua nói lại như cưa vậy.

       Ngài hỏi tiếp:  Thế nào Tổ nói nghĩa của tôi là nghĩa cây?

       Tổ đáp:  Vì cây bị cưa vậy.  Thế là nghĩa của ông bị tôi phá rồi.  Ngài nghe rồi liền ngộ đạo. 

       Trong kinh Ma-ha ma-da, Phật có huyền-ký (ghi trước) rằng:  “Sau khi Như-Lai diệt-độ 600 năm, các ngoại-đạo tà-thuyết thạnh-hành, hủy-diệt Phật pháp.  Lúc bấy giờ có vị Bồ-tát ra đời tên là Mã-minh, nói pháp rất hay, phá trừ tà-thuyết, hàng-phục ngoại-đạo”. 

       Bởi thế nên biết Ngài Mã-minh, cũng là một vị Bồ-tát tái lai.  Chúng ta học luận này, phải lấy làm hy-hữu, gia tâm nghiên-cứu, chớ nên xem thường. 

NGÀI CHƠN ÐẾ 

       Luận này có hai nhà dịch:  Ngài Chơn-đế và Ngài Thật-xoa Nan-đà.  Bản dịch này là của Ngài Chơn-đế.  Nguyên tiếng Phạn gọi là “Ba-la-mạc-đà”; Tàu dịch là “Chơn-đế”.  Ngài ở nước Ưu-thiền-ni, phía Tây Ấn-độ. 

       Ngài qua Tàu nhằm đời vua Nguyên-đế nhà Lương, niên-hiệu Thừa-thánh, năm thứ ba (Mậu-thìn).  Ngài ở chùa Kiến-hưng, đất Hoành-châu, dịch bộ Luận này. 

LỜI NGUYỆN CẦU

CHÁNH VĂN 

       Kính lạy Phật, Pháp và Tăng, vì muốn cho chúng-sanh bỏ chấp tà, trừ các nghi-ngờ, khởi lòng tin Ðại-thừa, để cho giống Phật chẳng mất, nên con tạo ra luận Ðại-thừa khởi tín này. 

LƯỢC GIẢI 

       Các vị Bồ-tát khi làm một việc gì, trước nhứt là để tâm qui kính Tam-bảo; cũng như con hướng về cha, trò hướng về thầy, dân-chúng hướng về vị lãnh-tụ của nước; và nguyện cầu Tam-bảo gia-bị cho việc làm của mình hợp với chánh-pháp và kết-quả viên-mãn. 

       Ðoạn này là Ngài Mã-minh Bồ-tát trước khi tạo luận, nói bài kệ quy-kính Tam-bảo và nguyện cầu Tam-bảo gia-bị. 

CHƯƠNG THỨ NHỨT

PHẦN NHƠN-DUYÊN 

CHÁNH VĂN

Vì 8 nhơn-duyên sau đây nên tạo ra luận này: 

1.      Vì muốn cho chúng-sanh xa-lìa các khổ, đặng vui rốt-ráo nên tạo luận này, không phải vì danh-lợi ở thế-gian, hay cầu người cung kính.

2.      Vì muốn cho chúng-sanh hiểu biết chơn-chánh, khỏi sự lầm-lạc, nên tạo luận này để giải-thích nghĩa căn-bản của Như-Lai.

3.      Muốn cho những chúng-sanh căn lành đã thuần-thục (mãn Thập-tín), lòng tin chẳng thối lui và có thể lãnh-thọ pháp Ðại-thừa, nên tạo luận này.

4.      Muốn cho những chúng-sanh căn lành mỏng ít (chưa mãn Thập-tín) tu tập tín tâm.

5.      Vì bảo-độ đạo-tâm của những chúng-sanh ác-nghiệp sâu dày, nên chỉ bày phương-tiện, để chúng tiêu trừ nghiệp chướng, xa-lìa các phiền-não si, mạn v.v… và ra khỏi lưới tà.

6.      Vì muốn đối-trị tâm-niệm sai-lầm của phàm-phu và Nhị-thừa, nên chỉ bày cho họ tu tập Chỉ Quán.

7.      Vì những chúng-sanh căn tánh kém-cỏi, nên chỉ bày phương-tiện chuyên tâm niệm Phật, sanh về cõi Phật, để cho tín tâm quyết-định không thối-chuyển.

8.      Chỉ bày lợi để khuyên người tu-hành. 

Tóm lại, vì 8 nhơn-duyên trên, nên tạo ra luận này. 

LƯỢC GIẢI 

       Luận này chia ra làm 5 phần, đây là phần thứ nhứt, Ngài Mã-minh Bồ-tát vì 8 nhơn-duyên sau đây nên tạo ra luận này: 

Nhơn-duyên thứ nhất:  Chư Phật và Bồ-tát khi làm việc gì, đều do lòng từ-bi, muốn cho chúng-sanh khỏi khổ được vui.  Tất cả chúng-sanh vì mê bản-tâm của mình mà thọ các khổ sanh-tử, không được vui Niết-bàn.  Trong luận này, Ngài Mã-minh Bồ-tát chỉ rõ bản-tâm, để cho chúng-sanh tự tin mình có bản-tâm thanh-tịnh (pháp Ðại-thừa) là cái khả-năng để thành Phật.  Khi chúng-sanh đã ngộ được bản-tâm của mình rồi, thì sẽ hết khổ sanh-tử, được vui Niết-bàn.  Vì thế nên tạo ra luận này. 

Nhơn-duyên thứ hai:  Các Ðức Như-Lai đều y nơi “nhứt tâm” tu-hành mà được thành đạo chứng quả.  Luận này nói về “nhứt tâm” là nghĩa căn-bản của Như-Lai, để cho chúng-sanh hiểu biết đường lối tu-hành một cách chơn-chánh, khỏi bị lạc vào tà-kiến (chấp tà). 

Nhơn-duyên thứ ba:  Luận-chủ muốn cho hàng Thập-tín Bồ-tát, đối với pháp Ðại-thừa, lòng tin chắc-chắn, không bị thối lui, để tiến đến bậc Thập-trụ. 

Nhơn-duyên thứ tư:  Vì những vị Bồ-tát chưa viên-mãn Thập-tín, muốn cho họ tu-tập tín-tâm được viên-mãn. 

Nhơn-duyên thứ năm:  Vì những chúng-sanh nghiệp-chướng nặng-nề, bị lưới tà làm chướng-ngại, nên tạo ra luận này để chỉ bày phương-tiện tu-hành, như tụng kinh, sám-hối v.v… hầu diệt trừ các nghiệp chướng. 

Nhơn-duyên thứ sáu:  Vì đối-trị lầm-lỗi của phàm-phu và Nhị-thừa, nên Luận-chủ tạo luận này, dạy tu “Chỉ” để trừ bịnh “Vọng-tưởng tán-loạn” của phàm-phu; và dạy tu “Quán” để đối-trị bịnh “Trầm không thú tịch” (tham luyến cảnh thiên-không Niết-bàn) của Nhị-thừa. 

(Quán nhơn-duyên sanh, thấy các pháp chẳng không:  Thánh, phàm đủ cả.  Bởi có phàm-phu nên phải tu đức đại-bi để cứu đời; vì có Thánh, nên phải phát trí-huệ, để cầu quả Phật). 

Nhơn-duyên thứ bảy:  Vì những người lo-sợ đời này tu-hành, nếu không chứng quả, thì trở lại đời sau bị nghịch duyên làm thối-chuyển đạo-tâm, hoặc không nhớ lại kiếp trước để tu-hành, nên tạo luận này dạy phương-tiện niệm Phật, để họ cầu sanh về cõi Phật, thường được nghe Phật thuyết-pháp và Bồ-tát khuyên tu, làm cho hành-giả tín tâm chẳng thối-chuyển. 

Nhơn-duyên thứ tám:  Vì những chúng-sanh giải-đãi, nên Luận-chủ nói sự lợi-ích tu-hành, để khuyên người tiến tu. 

CHÁNH VĂN 

       Hỏi:  Pháp Ðại-thừa, trong các kinh đã nói nhiều, cần gì phải lập trở lại? 

       Ðáp:  Khi Phật còn trụ-thế, vì ba nghiệp của Ngài đều thù-thắng, nên một tiếng của Phật nói ra (nhứt âm diễn xướng) tùy theo căn-cơ của mỗi loài đều được hiểu cả, không cần phải tạo luận.  Song sau khi Phật diệt-độ, các chúng-sanh trình-độ không đồng đều, nhơn-duyên lãnh thọ giáo-pháp cũng như sự lãnh-hội của mỗi người có khác nhau: Có chúng-sanh chỉ tự lực học hỏi rất nhiều kinh-điển mới hiểu-ngộ; có chúng-sanh cũng dùng tự lực học ít mà hiểu-ngộ nhiều; có chúng-sanh không thể tự lực mà phải nhờ xem có bộ đại luận, mới hiểu-ngộ; có chúng-sanh vì thấy các bộ đại luận rất phiền-phức, nên muốn tóm lại văn ít mà thâu nhiều nghĩa.  Vì thế nên Luận-chủ tạo ra luận này, để tóm-tắt giáo-pháp quảng-đại thậm-thâm và nghĩa lý vô biên của Ðức Như-Lai. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này, Luận-chủ lập lời vấn-đáp, để giải-đáp nghi-vấn của độc-giả. 

       Ðại-ý lời hỏi:  Pháp Ðại-thừa, trong các kinh luận đã nói nhiều, nay cần gì phải tạo luận nói lập trở lại? 

       Ðại-ý lời đáp:  Khi Phật còn tại-thế, do phước-huệ song toàn, ba nghiệp (thân, khẩu, ý) thù-thắng; và trình-độ của chúng-sanh thụ giáo cũng được ưu hạng, nên một lời của Phật nói ra (viên-âm) tất cả loài, tùy theo trình-độ của mình, đều được hiểu cả.  Bởi thế nên không cần phải tạo luận.  Song sau khi Phật nhập-diệt, người thay-thế Phật truyền giáo không được như Ngài, phần thì chúng-sanh trình-độ không đồngm nhơn-duyên ngộ đạo của mỗi người có khác:  Có người nhờ xem kinh mà ngộ đạo, có người nhờ xem luận mà ngộ đạo, có người ưa nghiên-cứu những bộ đại-luận, có người chỉ muốn học những quyển luận, văn ít mà bao-hàm rất nhiều ý-nghĩa.  Vì muốn tóm tắt các nghĩa lý sâu rộng vô biên của Phật, nên ngài Mã-minh Bồ-tát tạo ra luận này. 

CHƯƠNG THƯ HAI

PHẦN ÐỊNH DANH NGHĨA 

CHÁNH VĂN 

       Chương này có hai phần: 

A.    PHÁP ÐẠI-THỪA (Thể Ðại-thừa).  

Tức là tâm chúng-sanh.  Tâm này tóm thâu hết thảy các pháp thế-gian, xuất-thế-gian và nói lên được nghĩa Ðại-thừa. 

Tại sao vậy?  Vì tâm này có 2 tướng: 1. Tướng Chơn-như tức là cái Thể của Ðại-thừa.  2. Tướng nhơn-duyên sanh-diệt tức là Thể, Tướng và Dụng của Ðại-thừa. 

B.     NGHĨA ÐẠI-THỪA. 

“Ðại” là lớn, lớn cả 3 phương-diện: 

1.      Thể lớn:  Bản-thể chơn-như bình-đẳng, bất tăng bất giảm của tất cả pháp.

2.      Tướng lớn:  Như-lai-tạng chứa đầy vô-lượng tánh công-đức.

3.      Dụng lớn:  Vì nó sanh tất cả nhơn-quả lành của thế-gian và xuất-thế-gian. 

“Thừa” là chiếc xe, tất cả chư Phật đều đi xe này (pháp Ðại-thừa); tất cả các vị Bồ-tát cũng đều đi xe này mà đến chỗ Phật. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này nói về phần lập-nghĩa, tức là xác-định cái danh-nghĩa Ðại-thừa.  Phần lập-nghĩa này chia làm hai: Pháp đại-thừa và Nghĩa đại-thừa. 

I.                   Pháp đại-thừa: 

Là tâm chúng-sanh.  Tâm này có hai tướng. 

1.      Tướng Chơn-như tức là chỉ riêng về phần thể-tánh chơn-như thanh-tịnh; dụ như “Tánh trong-sạch” của nước.

2.      Tướng nhơn-duyên sanh-diệt tức là chỉ chung cho Thể, Tướng và Dụng của chơn-vọng hòa-hợp; dụ như “Tánh trong sạch” và “Tướng nhơ đục” lẫn-lộn của nước. 

II.     Nghĩa đại-thừa:      

Ðại-thừa nghĩa là gì?  “Ðại” là lớn; “Thừa” (thặng) là chiếc xe: chiếc xe lớn. 

Tâm chúng-sanh, Thể, Tướng và Dụng đều lớn.  Thể thì bao-trùm tất cả pháp, Tướng thì chứa đựng hằng-sa công-đức, còn Dụng thì xuất-sanh tất cả các pháp thế-gian và xuất-thế-gian. 

Khế-kinh chép:  “Vô bất tùng thử pháp-giới lưu, mạc bất hoàn qui thử pháp-giới”, (không có một pháp nào chẳng từ tâm này mà lưu xuất, và cũng không có một pháp nào chẳng trở về tâm này). 

Tâm này bao trùm tất cả các pháp thế-gian và xuất-thế-gian.  Các Ðức Phật đều nương tâm này mà được thành đạo.  Các vị Bồ-tát cũng đều nương tâm này mà đến chỗ Phật.  Chúng sanh cũng do tâm này mà luân-hồi trong 6 đường.  Tâm này cũng như chiếc xe lớn chở tất cả người và vật.  Bởi thế nên gọi tâm này là pháp Ðại-thừa. 

Tại sao không nói “Tâm Phật” là pháp Ðại-thừa mà chỉ nói “Tâm chúng-sanh” là pháp Ðại-thừa?  Vì có hai ý:

1.                    Nếu nói “Tâm Phật” thì chỉ tóm thâu được pháp thanh-tịnh vô-lậu mà thôi; còn nói “Tâm chúng-sanh”, lại tóm thâu được cả pháp hữu-lậu, vô-lậu, thế-gian và xuất-thế-gian. 

2.                    Nói Tâm chúng-sanh là đứng về phần “nhơn” mà nói; vì chưa phải nhiễm hay tịnh, nên mới có thể tùy nhiễm-duyên khởi ra nhiễm pháp, tùy tịnh-duyên khởi ra tịnh pháp. 

GIẢI DANH-TỪ 

Tướng chơn-như:  Chữ “Chơn” là chơn-thật không hư dối; chữ “Như” là bình-đẳng như-như, không sanh diệt, nghĩa là tướng chơn-thật bình-đẳng như-như không sanh diệt; tức là “Thật tướng” hay “Chơn tâm” hay “Viên giác” đây là cái “Thể của Ðại thừa”.  Ðoạn nầy gọi là “Tướng chơn-như” tức là ở đoạn văn sau mà gọi “Môn chơn-như”. 

Tướng nhơn-duyên sanh-diệt:  Vì nhơn-duyên sanh-diệt, nên đủ cả các tướng: nhiễm, tịnh, thánh, phàm v.v…  Ðoạn này gọi “Tướng nhơn-duyên sanh-diệt” tức là ở đoạn văn sau gọi “Môn sanh-diệt”. 

Như-lai-tạng, có 3 nghĩa:  

  1. Tánh Như-lai (tánh Phật) bị các phiền-não phú tàng (che đậy), tức là chỉ cho chơn-như còn bị triền-phược; như vàng còn ở trong khoáng.
  2. Tánh Như-lai bao-trùm tất cả pháp (nghĩa năng-tàng).
  3. Tánh Như-lai là chỗ xuất-sanh ra vô-lượng công-đức (nghĩa sở-tàng).  

Tánh công-đức:  Công-đức sẵn có trong Như-lai-tàng.  Công-đức này không phải do tu-tập mà được; song phải nhờ sự tu-tập làm trợ-duyên nó mới hiện.  Chúng-sanh vì thiếu sự tu-tập làm trợ-duyên, nên tánh công-đức này không phát hiện. 

Nhơn-quả lành:  Tại sao luận này chỉ nói “Nhơn-quả lành” mà không nói đến “nhơn-quả ác”? 

-          Vì có 3 nghĩa: 

  1. Nhơn quả ác là thứ nhiễm-ô hư-vọng; vì tâm này chỉ bao-trùm vô-lượng hằng-sa công-đức, nên không hiệp với thứ nhiễm-ô hư-vọng.  Dụ như nước có cả chất trong và đục; song “chất đục” không hợp với tánh nước, mà “chất trong” mới hiệp với nước; vì khi lóng bỏ bùn rồi thì chỉ còn chất nước trong.  Cũng thế, pháp nhiễm-ô không hiệp với tâm này, mà duy có nhơn-quả lành mới hiệp với tâm này.
  1. Ngài Mã-minh chỉ nói về “Nhơn-quả lành”, là vì để chúng-sanh thấy tâm mình sanh ra các nhơn-quả lành, nên sanh tâm ham-mộ sự tu-hành, mong cầu quả Phật.  
  1. Ngài Mã-minh Bồ-tát đã lên Thánh vị, nên trong A-lại-da thức của Ngài chỉ toàn nhơn quả lành.  Vì Ngài chỉ thấy thuần-thiện, nên chỉ nói “nhơn quả lành” mà không nói đến “nhơn quả ác”.  

Nhơn-quả lành thế-gian:  Nhơn-quả thuộc về hữu-lậu thiện, còn quanh-quẩn trong ba cõi thế-gian là Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới. 

Nhơn-quả lành xuất-thế-gian:  Nhơn-quả thuộc về vô-lậu thanh-tịnh, ra ngoài tam giới. 

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ X & XI)
02 - TÂM CHƠN NHƯ (CHƠN TÂM)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712