Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Nhơn Minh Luận Cương Yếu

NHƠN MINH LUẬN

BÀI HỌC THUỘC LÒNG

        (Quí vị muốn học Nhơn-minh luận được dễ hiểu, trước phải học thuộc lòng những danh-từ sau đây). 

         Nhơn-minh nhập chánh-lý luận, nội-dung có 3 phần (tam-chi):  Tôn, Nhơn, Dụ. 

Tợ “Tôn” có 9 lỗi: 

1.      Hiện-lượng tương vi.

2.      Tỷ-lượng tương vi.

3.      Tự giáo tương vi.

4.      Thế gian tương vi.

5.      Tự ngữ tương vi. 

5 Tôn trên đều bị lỗi “trái với tự-tướng của các pháp”. 

6.      Năng-biệt bất-cực-thành.

7.      Sở-biệt bất-cực-thành.

8.      Câu-bất-cực-thành. 

3 Tôn trên đều bị lỗi “bất thành”. 

9.      Tương-phù cực-thành.  Tôn này lập không có hiệu quả. 

Tợ “Nhơn” có 14 lỗi, phân làm 3 phần: 

I.          Bất-thành có 4 lỗi: 

1.      Lưỡng câu bất thành.

2.      Tùy nhứt bất thành.

3.      Dụ dự bất thành.

4.      Sở y bất thành. 

II.       Bất-định có 6 lỗi: 

1.      Cộng bất định.

2.      Bất cộng bất định.

3.      Ðồng-phẩm nhứt phần chuyển, Dị-phẩm biến chuyển bất định.

4.      Dị-phẩm nhứt phần chuyển, Ðồng-phẩm biến chuyển bất định.

5.      Câu phẩm nhứt phần chuyển bất định.

6.      Tương-vi quyết-định bất định. 

III.    Tương-vi có 4 lỗi: 

1.      Pháp tự-tướng tương vi.

2.      Pháp sai-biệt tương vi.

3.      Hữu-pháp tự-tướng tương vi.

4.      Hữu-pháp sai-biệt tương vi. 

Tợ “Dụ” có 10 lỗi, phân làm 2 phần: 

       I.  Tợ đồng-dụ có 5 lỗi: 

1.      Năng-lập pháp bất thành.

2.      Sở-lập pháp bất thành.

3.      Câu bất thành.

4.      Vô hiệp.

5.      Ðảo hiệp. 

       II.  Tợ dị-dụ có 5 lỗi: 

1.      Sở-lập pháp bất khiển.

2.      Năng-lập pháp bất khiển.

3.      Câu bất khiển.

4.      Bất ly.

5.      Ðảo ly. 

NHƠN-MINH LUẬN CƯƠNG-YẾU

NHƠN-MINH LUẬN TỪ ÐÂU MÀ CÓ? 

       Trước thời Phật Thích-Ca giáng-sanh (chưa rõ xác-thật là bao nhiêu năm), ở Ấn-độ có nhiều phái ngoại-đạo, tranh-chấp nhau bằng lý-thuyết.  Ông Túc-Mục Tiên-nhơn là một trong các vị Tổ của các phái, lập ra pháp luận-lý này, để bác các đạo; phương-pháp này được tín-dụng và đắc-lực trong thời-kỳ ấy. 

       Ðến khi Phật ra đời, thấy Nhơn-minh là một môn luận-lý có qui-tắc, vừa đúng lý và vừa hợp thời, được công-chúng thừa-nhận, nên Phật cũng dùng lối lý-luận này, để bác các ngoại đạo tà-giáo đem về chánh-lý. 

       Sau khi Phật nhập-diệt, độ khoảng 600 năm, có Ngài Mã-Minh và Long-Thọ, hai vị Bồ-tát ra đời ở Ấn-độ, sưu-tập lại, phân làm năm phần: Tôn, Nhơn, Dụ, Hiệp, Kết. 

       Về sau Ngài Trần-Na Bồ-tát, cải-cách lại, thành-lập Nhơn-minh luận có 3 phần: Tôn, Nhơn, Dụ và viết ra bộ “Nhơn-minh nhập chánh-lý luận”.  Người ta gọi: Từ Ngài Trần-Nan về trước là “Cổ Nhơn-minh”, từ Ngài Trần-Na về sau là “Tân Nhơn-minh”. 

       Ðến đời Ðường, Ngài Huyền-Trang Pháp-sư (người Trung-hoa) sang Ấn-độ học Phật-pháp, rất tinh-thông về môn học này.  Ngài đã nhiều lần lên luận-đàn, dùng lối luận-lý Nhơn-minh này mà biện-luận, làm cho cả Ấn-độ 18 nước đều kính-phục. 

       Sau khi trở về nước, Ngài dịch lại và truyền-bá trong nước Trung-hoa. 

       Vì sự đòi hỏi của tín-đồ, nên tôi (Sa-môn Thích Thiện-Hoa) phỏng-dịch và chú-giải bằng chữ Việt. 

SAO GỌI LÀ “NHƠN-MINH NHẬP CHÁNH-LÝ LUẬN” ? 

       Nhân-minh luận là một môn luận-lý tối cổ ở Á-đông; vừa đúng lý, vững-chắc và vừa có qui-tắc.  Ðiều cốt-yếu là phải rành-rõ “nguyên-nhân” hay “lý-do vì sao”, thì lối luận-lý mới chơn-chánh và đúng-đắng, nên gọi là “Nhơn-minh nhập chánh-lý luận”. 

       Vì nhờ “Nhơn” mới rõ được Tôn, nhờ “Nhơn” mới lập được Dụ.  Bởi “Nhơn” rất trọng-yếu như vậy, nên gọi là “Nhơn-minh”, mà không gọi là Tôn-minh hay Dụ-minh.  Nhơn-minh là một trong Ngũ-minh. 

NỘI-DUNG CỦA NHƠN-MINH 

       Nội-dung của Nhơn-minh luận, chia làm 3 phần: Tôn, Nhơn, Dụ.  Theo Cổ Nhơn-minh có thêm 2 phần: Hiệp và Kết là 5 phần. 

       Cổ Nhơn-minh: 

1.      Tôn:

Nhơn-loại đều phải chết.

2.      Nhơn:

Vì có sanh vậy.

3.      Dụ:

Như loài vật.

4.      Hiệp:

Phàm có sanh phải có chết.

5.      Kết:

Loài vật có sanh, nên loài vật phải có chết; nhơn-loại có sanh, nên nhơn-loại phải có chết.

        Tân Nhơn-minh: 

1.      Tôn:

Nhơn-loại đều phải chết.

2.      Nhơn:

Vì có sanh vậy.

3.      Dụ:

Phàm có sanh phải có chết, như loài vật.

A.  TÔN

       Phàm nói ra một câu gì, hay trình-bày một lập-thuyết gì, cái lập-thuyết ấy gọi là Tôn.  Như nói:  “Tôi ăn cơm”. 

       Tôn có nhiều tên như: 

1.      Tiền-trần (danh-từ trước) cũng gọi:  Hữu-pháp, Tự-tướng, Sở-biệt.

2.      Hậu-trần (danh-từ sau) cũng gọi:  Pháp, Sai-biệt, Năng-biệt.

Thí-dụ như nói:  Tôi ăn cơm. 

Tôi - Tiền-trần (danh-từ trước), Hữu-pháp, Tự-tướng, Sở-biệt. 

Ăn cơm - Hậu-trần (danh-từ sau), Pháp, Sai-biệt, Năng-biệt. 

TÔN CÓ TÔN-Y VÀ TÔN-THỂ 

1.      Tôn-y gồm có 2 phần: 

a.       Tiền-trần:  Hữu-pháp, Sở-biệt và Tự-tướng.

b.      Hậu-trần:  Pháp, Năng-biệt và Sai-biệt. 

2.      Tôn-thể: 

a.   Cổ Nhơn-minh (từ Ngài Trần-Na về trước) lấy Tiền-trần làm Tôn-y, Hậu-trần làm Tôn-thể.

b.      Tân Nhơn-minh (từ Ngài Trần-Na về sau) cho Tiền-trần và Hậu-trần là vật-kiện để lập Tôn, đều là Tôn-y.  Hai vật kiện ấy hợp chung lại thì gọi là Tôn-thể. 

CHÍN LỖI VỀ TỢ TÔN 

       Phàm lập Tôn phải tránh 9 lỗi sau đây, thì cái Tôn ấy mới đúng-đắn, mới đủ tư-cách để thành lập luận-thuyết của mình, hoặc bác thuyết của người khác.  Chín lỗi gồm có: 

  1. Hiện-lượng tương vi.  

Lập cái Tôn, trái với cảm-giác hiện-tiền.  Như hiện-tiền ai cũng hiểu rằng: Mũi ngửi mùi, tai nghe tiếng v.v… Nay lại lập cái Tôn rằng: 

Tôn: 

a.       Tai tôi nghe mùi thơm.

b.      Mắt tôi thấy tiếng nói v.v… 

Vì nói như vậy là trái với sự hiểu-biết hiện-tại; vừa nói ra, người ta thấy mình nói sai rồi.  Tôn đã sai thì làm sao lập được “Nhơn” và “Dụ”. 

*  Chữ “Hiện-lượng”, theo các bản giải về Nhơn-minh hay Duy-thức, đều nói:  Trong lúc đối-cảnh, về đệ-nhứt sát-na chưa khởi phân-biệt, thì gọi là “Hiện-lượng”. 

  1. Tỷ-lượng tương vi.  

Lập cái Tôn, trái với sự “so-sánh phân-biệt”.  Theo sự so-sánh hiểu biết của người:  Phàm là người, ai cũng phải chết, như các vị tiền-nhân đã chết.  Và phàm vật gì có hình phải có hoại, cũng như bao nhiêu vật đã hoại trước.  Nay lại lập Tôn rằng: 

Tôn: 

a.       Tôi sống hoài không chết.

b.      Cái nhà tôi không bao giờ hư. 

Lập Tôn như vậy là trái với sự “so-sánh phân-biệt” của người, nên có lỗi. 

  1. Tự-giáo tương vi.  

Lập cái Tôn, trái với giáo-lý của mình tôn-thờ.  Nói rộng ra là trái với chủ-nghĩa, đảng-phái, gia-đình, quốc-gia hay một lý-thuyét nào mà mình đương tôn-trọng.  Như trong Ðạo Phật nói “Chúng-sanh có quả-báo luân-hồi”.  Và nói “Có thế-giới Cực-lạc ở phương Tây v.v…”.  Chúng ta là Phật-tử lại lập cái Tôn rằng: 

Tôn: 

a.       Chúng-sanh không có luân-hồi quả-báo.

b.      Không có nước Cực-lạc. 

Ngoại nhơn hỏi lại:  “Ông nói như vậy, thì mâu-thuẫn với Tôn-giáo của ông.  Vậy ông nói đúng-lý, hay Tôn-giáo của ông đúng-lý?  Nếu Tôn-giáo ông dạy đúng-lý, thì lời nói ông sai, còn lời nói của ông đúng-lý thì Tôn-giáo ông sai.  Vậy ông nhìn-nhận cái nào đúng?”   Họ không cần bác, mà mình cũng bị thua. 

  1. Thế-gian tương vi.  

Lập cái Tôn, trái với phong-tục, tập-quán và sự hiểu biết của thế-gian.  Thế-gian có 2 hạng người:  Có học-thức và không có học-thức.

Nếu đối với người có học-thức mà chúng ta lập cái Tôn như vầy: 

Tôn: 

a.       Ông Thiên-lôi đánh anh Xoài chết.

b.      Bịnh ho-lao không phải do vi-trùng gây nên. 

Lập cái Tôn như thế, bị lỗi trái với thế-gian theo những người có học-thức (Khoa-học).  Vì khoa-học (người có học-thức) nói “bịnh ho-lao do vi-trùng gây nên”, và không công-nhận có ông Thiên-lôi.  Chúng ta nói như thế, sẽ bị họ chê là người không có học-thức. 

Trái lại, nếu đối với thế-gian người vô-học, mà chúng ta lập cái Tôn như vầy, cũng bị lỗi thế-gian tương vi. 

Tôn: 

a.       Không có ông Thần ban phước giáng-họa.

b.      Bịnh ho-lao phát-sinh do vi-trùng. 

Bởi vì người thế-gian vô-học, họ tin có ông Thần ban phước giáng-họa và không biết vi-trùng.  Mặc dù chúng ta nói phải, nhưng thiếu những lời-lẽ khôn-khéo ngăn đón, nên họ không công-nhận.  Bởi họ không công-nhận, nên lời nói của mình không giá-trị, vì thế bị lỗi “Thế-gian tương vi”. 

  1. Tự-ngữ tương vi.  

Lập cái Tôn mà lời nói sau của mình, tự mâu-thuẫn với lời nói trước của mình.  Như lập: 

Tôn: 

a.       Vậy này bao-nhiêu mà rẻ vậy?

b.      Ông này mù mà cái chi cũng thấy hết. 

Ðã không biết giá là bao-nhiêu, tại sao biết rẻ?  Ðã là mù, thì tại làm sao cái chi cũng thấy.  Lời nói của mình tự mâu-thuẫn với lời nói của mình.  Chính mình cũng thấy sai, thì ai còn công-nhận là phải. 

  1. Năng-biệt bất cực-thành.

Lập cái Tôn mà “danh-từ sau” bên đối-phương không công-nhận.  Như đối với Phật-học hay Khoa-học mà lập cái Tôn như vầy: 

Tôn: 

a.       Thế-giới này (danh-từ trước) do Thần Tạo-vật (danh-từ sau) sanh.

b.      Anh Ổi (danh-từ trước) bị Thiên-lôi (danh-từ sau) đánh. 

Phật-học và Khoa-học đồng nhận có Thế-giới và anh Ổi; nhưng không bao giờ nhận có “Thần Tạo-vật” và “Thiên-lôi”.  Bởi đối-phương không công-nhận nên bị lỗi “bất-thành”. 

  1. Sở-biệt bất cực-thành.  

Lập cái Tôn mà “danh-từ trước” bên đối-phương không công-nhận.  Như đối với Phật-học và Khoa-học, lập như vầy: 

Tôn: 

a.       Thần Tạo-vật (danh-từ trước) sanh ra loài người.

b.      Thái-cực (danh-từ trước) sanh ra vạn-vật. 

Loài người và Vạn-vật là hai danh-từ sau, thì cả Phật-học và Khoa-học đều nhận có; còn Thần Tạo-vật và Thái-cực là hai danh-từ trước, thì Phật-học cũng như Khoa-học đều không công-nhận, nên bị lỗi “bất-thành”. 

  1. Câu bất cực-thành.  

Lập cái Tôn mà “danh-từ trước” và “danh-từ sau”, bên đối-phương đều không nhìn-nhận.  Như đối với Khoa-học mà lập như vầy: 

Tôn: 

a.       Cốc-thần, Thái-cực là Chơn-như.

b.      Thần Tạo-vật chính là Thái-cực. 

Bên Khoa-học không nhìn-nhận danh-từ trước là “Cốc-thần, Thái-cực hay Thần Tạo-vật” và cũng không nhìn-nhận danh-từ sau là “Chơn-như hay Thái-cực”.  Phàm lập-luận mà bên đối-phương không hiểu, hoặc hiểu mà không nhìn-nhận, thì không thể lý-luận được nữa.  Nên bị lỗi “bất-thành”.

Tóm lại, ba lỗi bất-thành này (Năng-biệt, Sở-biệt và Câu-bất-thành) bên đối-phương không hiểu, hoặc hiểu mà không công-nhận.  Bởi hai nguyên-nhơn: 

1.      Lập không đúng.

2.      Lập đúng mà thiếu lời khôn-khéo giản-biệt, nên bị lỗi ấy. 

  1. Tương-phù cực-thành.  

Lập cái Tôn mà trùng ý-kiến với bên đối-phưong.  Như lập: 

Tôn: 

a.       Cơm ăn no bụng.

b.      Nước uống đã khát. 

Phàm cãi nhau là vì hai bên ý-kiến không đồng.  Nếu bên khách đã nhìn-nhận như mình, mà mình còn lập thêm cái Tôn ra nữa thì vô-ích, nên bị lỗi “tương-phù” (trùng điệp). 

Trong 9 lỗi về Tôn, từ 1 đến 5 là thuộc về lỗi “tương-vi”; từ 6 đến 8 là thuộc về lỗi “bất thành”.  Lỗi thứ 9 vì lập trùng điệp, nên không có hiệu-quả.  9 lỗi về tợ Tôn, giải-thích đã rồi, bây giờ sẽ nói 14 lỗi về tợ Nhơn. 

PHỤC BÀI HỌC ÔN (ÔN LẠI 9 LỖI VỀ TỢ TÔN) 

       Quí vị nên xét kỹ, những câu sau này, đối với 9 lỗi trong tợ Tôn, thuộc về lỗi gì? 

1.      Mẹ tôi không có chồng.

2.      Không có Trời Ðất Quỉ Thần.

3.      Không Nhơn-quả Luân-hồi.

4.      Không Thiên-đường và Ðịa-ngục.

5.      Trời sanh muôn loài.

6.      Trời không luân-hồi.

7.      Minh-sơ sanh Thần-ngã.

8.      Vò-vò bắt sâu làm con của nó.

9.      Tai nghe mùi thơm.

10.  Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi.

11.  Tôi trường-sanh bất-tử.

12.  Vật này bao-nhiêu mà rẻ vậy.

13.  Ông mù này, cái chi cũng thấy.

14.  Ngựa đua dưới nước, tàu chạy trên bờ.

B. NHƠN 

Nhơn là nguyên-nhơn hay lý-do.  Phàm một sự-vật hay một câu nói gì, cũng đều có nguyên-nhơn hay lý-do cả. 

Như nói: 

      Tôn:  Tôi muốn ăn cơm.

      Nhơn:  Vì tôi đói bụng vậy (lý-do). 

Phàm cái “Nhơn” nào đủ cả 3 tánh-chất sau đây, mới đúng-đắn.  Trái lại, nếu thiếu một, thiếu hai, hoặc thiếu ba, thì cái Nhơn ấy cớ lỗi.  Mười bốn lỗi về Nhơn sau này, cũng bởi thiếu một, hai hoặc ba tánh-chất sau đây.  Vậy quí vị nên nhớ kỹ ba tánh của Nhơn. 

  1. Biến thị Tôn-pháp tánh.   

Nghĩa là: Cái Nhơn phải bao-trùm cả Tôn (tánh-chất thứ nhứt). 

BIỂU  

 

 

 

 

 

 

Nhơn trùm cả Tôn

Như lập: 

Tôn:  Tôi muốn ăn cơm.

Nhơn:  Vì tôi đói bụng vậy.

 

Cái Nhơn “Vì tôi đói bụng” này, nó trùm được danh-từ trước của Tôn là “Tôi muốn”; và cũng trùm được danh-từ sau của Tôn là “Ăn cơm”.

 

Nghĩa là:  Vì tôi đói bụng, nên “tôi muốn”; vì tôi đói bụng, nên “tôi ăn cơm”.

 Ðồng-phẩm định hữu tánh.  

Nghĩa là cái Nhơn quyết-định phải hoàn-toàn hoặc ít nhứt là phải có một phần liên-quan với Ðồng-dụ.  Nó phải là một tánh-chất của Ðồng-dụ (tánh-chất thứ hai của Nhơn). 

BIỂU

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhơn này trùm cả Tôn và liên-quan

Ðồng-dụ

Như lập:

Tôn:  Tôi muốn ăn cơm.

Nhơn:  Vì đói bụng vậy.

Ðồng-dụ:  Như anh A (đói bụng và muốn ăn cơm).

 

“Như anh A” là Ðồng-dụ.  Nghĩa là:  Anh A cũng “vì đói bụng” (Nhơn), nên “muốn ăn cơm” (Tôn).

 

Cái Nhơn “vì đói bụng” này, hoàn-toàn liên-quan với Tôn và Ðồng-dụ (thí-dụ thuận).

 Dị-phẩm biến vô tánh.  

Cái “Nhơn” này đối với Dị-dụ (thí-dụ về bề trái) phải hoàn-toàn không liên-quan; nghĩa là tánh-chất của Nhơn, phải hoàn-toàn không có trong Dị-dụ mới được (tánh-chất thứ ba của Nhơn). 

BIỂU

 

Nhơn này trùm cả Tôn và Ðồng-dụ, còn Dị-dụ không liên-quan đến Tôn và Nhơn.

Như lập:

Tôn:  Tôi muốn ăn cơm.

Nhơn:  Vì đói bụng vậy.

Ðồng-dụ:  Như anh A (đói bụng muốn ăn).

Dị-dụ:  Như anh B (no bụng không muốn ăn).

 

Cái Nhơn “vì đói bụng” này, đối với Dị-dụ hoàn-toàn không có liên-quan; nghĩa là: Anh B (Dị-dụ) đã no bụng (trái với Nhơn: đói bụng), nên không muốn ăn (trái với Tôn: muốn ăn).

 14 LỖI VỀ NHƠN 

            Phàm lập cái “Nhơn”, phải tránh 14 lỗi sau này, thì cái “Nhơn” ấy mới hoàn-toàn đúng-đắn, chia làm 3 loại: 

I.       BỐN LỖI BẤT-THÀNH. 

1.      Lưỡng câu bất thành 

            Lập cái Nhơn mà cả chủ mà khách đều không nhìn nhận. 

            Như lập: 

Tôn:

Con rắn hổ-mây chạy mau.

Nhơn:

Vì nó có chân vậy (nguyên-nhơn).

      Cả chủ và khách đều không nhìn nhận “rắn hổ có chân”.  Nay lại lập cái Nhơn “vì có chân”, nên cái Nhơn này chẳng thành. 

2.      Tùy nhứt bất thành. 

      Phàm lập cái Nhơn, phải chủ và khách hai bên đều công nhận; ít nhứt là một bên khách phải có công nhận, thì cái Nhơn ấy mới thành.  Nay cái Nhơn này bên khách không công nhận, nên bị lỗi “Tùy nhứt bất thành”.  Như đối với nhà Khoa-học lập như vầy:

            Như lập: 

Tôn:

Vò-vò không sanh con (trứng).

Nhơn:

Vì nó bắt sâu làm con vậy.

      Theo Khoa-học nói, con Vò-vò đẻ trứng trong tổ, rồi bắt sâu nhét vào làm mồi, để cho con nó khi nở ra có mồi ăn.  Nay lập cái Nhơn “bắt sâu làm con” thì bên khách (Khoa-học) không công nhận, nên bị lỗi. 

3.      Dụ dự bất thành. 

     Cái nhơn dụ dự chẳng nhứt định, nên không thành.  Như ở xa thấy mù-mù, không rõ đó là sương mù hay khói mù, lập như vầy:

             Như lập: 

Tôn:

Chỗ kia có lửa.

Nhơn:

Vì có mù (khói mù) vậy.

             Nếu vì “khói mù”, thì cái Tôn này có lửa (đúng); còn vì “mây mù”, thì cái Tôn này không lửa (không đúng). 

            Cái Nhơn này người ta có thể lập ngược lại như vầy: 

            Như lập: 

Tôn:

Chỗ kia có lửa.

Nhơn:

Vì có mù (mây mù).

      Bởi cái Nhơn này có thể lập được cả hai Tôn, vừa “có lửa” và vừa “không lửa”, dụ-dự không nhất định, nên bị lỗi “bất thành”. 

4.      Sở y bất thành.      

      Chỗ y-cứ của mình, bên khách không công nhận.  Như tín-đồ Nhứt-thần-giáo, đối với khoa-học hoặc Phật-giáo lập như vầy: 

            Như lập: 

Tôn:

Thần sanh ra mọi vật.

Nhơn:

Vì trong kinh của Ðạo tôi nói vậy.

 

     Phải là tín-đồ của Tôn-giáo họ, mới nhìn-nhận kinh của Ðạo họ là đúng.  Còn đối với khoa-học hay Phật-giáo, không nhìn-nhận kinh sách của họ, mà y-cứ nơi kinh sách đó để lập luận với người ngoài Ðạo mình, nên bị lỗi “sở y bất thành”. 

            Một tỷ-dụ thứ hai:  Theo trong Nhơn-minh có lập lượng như vầy: 

            Như lập: 

Tôn:

Hư-không thật có.

Nhơn:

Vì muôn vật đều y hư-không vậy.

      Phái “Vô-không luận”, họ chẳng công nhận “thật có hư-không”.  Nếu đối với phái này, mà lập cái Nhơn như vậy thì bị lỗi “sở-y bất thành”. 

       Bốn lỗi “bất thành” đã nói rồi, bây giờ sẽ nói đến sáu lỗi “bất định”. 

II.  SÁU LỖI “BẤT-ÐỊNH”. 

  1. Cọng bất định.  

Cái Nhơn này liên-quan cả Ðồng-dụ và Dị-dụ, nên bị lỗi “không nhứt định”. 

BIỂU

Như lập:

Tôn:  Anh A đau.

Nhơn:  Vì ăn xoài sống.

Ðồng-dụ:  Như anh B (ăn xoài sống và đau).

Dị-dụ:  Như anh D (ăn xoài sống, không đau).  

 Nếu nói anh A “vì ăn xoài sống” mà đau như anh B, thì tại sao anh D cũng “ăn xoài sống” mà lại không đau?  Bởi thế nên người ta có thể lập cái Tôn ngược lại rằng: 

Như lập: 

Tôn:

Anh D không đau.

Nhơn:

Vì ăn xoài sống.

Ðồng-dụ:

Như anh B (ăn xoài sống và không đau).

Dị-dụ:

Như anh A (ăn xoài sống đau).

 Người ta có thể hỏi rằng:  Vậy thì “Vì ăn xoài sống” mà bị đau như anh A, hay “Vì ăn xoài sống” mà không đau như anh D?  Bởi lập cái nhơn bất-định như vậy nên có lỗi. 

  1. Bất cọng bất định.  

Cái nhơn này không có liên-quan với Ðồng-dụ và Dị-dụ. 

BIỂU

 

Như lập:

Tôn:  Tiếng là thường còn.

Nhơn:  Vì tai nghe vậy.

Ðồng-dụ:  Như hư-không (tai không nghe).

Dị-dụ:  Như cỏ cây (tai không nghe).  

 Cái Nhơn “Vì tai nghe” này, đối với Ðồng-dụ và Dị-dụ đều không có liên-quan chút nào cả, nên cũng bị lỗi “bất-định”.  Bởi cái Nhơn này người ta có thể lập ngược lại như vầy. 

Như lập: 

Tôn:

Tiếng là vô thường.

Nhơn:

Vì tai nghe vậy.

Ðồng-dụ:

Như cỏ cây (vô thường).

Dị-dụ:

Như hư-không (thường còn).

 Vậy, “vì tai nghe” mà tiếng nói thường còn như hư-không? Hay “vì tai nghe” mà tiếng nói vô thường như cỏ cây?  Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi “bất-định”.

  1. Ðồng-phẩm nhứt phần chuyển, Dị-phẩm biến-chuyển bất-định.  

Cái Nhơn đối với Ðồng-dụ thì có dính-líu một phần, còn Di-dụ thì hoàn-toàn dính-líu. 

BIỂU

Như lập:

Tôn:  Chỗ kia có khói.

Nhơn:  Vì có lửa vậy.

 

Ðồng-dụ: 

Như lửa rượu alcool (có lửa, không khói).

Như lửa nhà bếp (có lửa, có khói).

 

Dị-dụ:  Như lửa nhà bếp (có lửa, có khói).

 Nếu cái Nhơn “vì có lửa”, dụ như lửa nhà bếp, thì Tôn này có “khói”, còn “vì có lửa”, dụ như lửa rượu, thì cái Tôn này “không khói”.  Vì cái Nhơn này, đối với Tôn “có khói” hay “không khói” đều không nhứt định, nên cái Nhơn này có lỗi bất định.  Bởi người ta có thể lập ngược lại như vầy: 

Như lập: 

Tôn:

Chỗ kia không khói.

Nhơn:

Vì có lửa vậy.

Ðồng-dụ:

Như lửa alcool (có lửa, không khói).

Dị-dụ:

Như lửa nhà bếp (có lửa, có khói).

 Dị-phẩm nhứt phần chuyển, Ðồng-phẩm biến chuyển bất-định.  

Cái Nhơn này đối với Dị-dụ, có dính-líu một phần, còn đối với Ðồng-dụ thì hoàn-toàn dính-líu, nên cái Nhơn này cũng bị lỗi “bất định”. 

BIỂU

 

Như lập:

Tôn:  Con khỉ leo cây giỏi.

Nhơn:  Vì có hai tay.

Ðồng-dụ:  Như con vượn.

 

Dị-dụ: 

Như con bò (không tay, không biết leo).

Như con rắn (không tay, leo cây giỏi).

 Phàm Ðồng-dụ thì phải hoàn-toàn liên-quan cả Tôn và Nhơn; còn Dị-dụ thì phải hoàn-toàn không dính-líu gì đến Tôn và Nhơn, như thế mới đúng. 

Nay cái Nhơn này, đối với Dị-dụ bị dính-líu hết một phần.  Bởi thiếu cái tánh-chất thứ ba của Nhơn là “Dị-phẩm biến vô tánh”, nên bị lỗi; vì khách có thể hỏi lại rằng: “Vì không tay, nên “leo cây giỏi” như con rắn; hay vì không tay, nên “chẳng biết leo cây” như con bò?”.  Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi “bất định”. 

  1. Câu phẩm nhứt phần chuyển bất-định.  

Cái Nhơn này đối với Ðồng-dụ và Dị-dụ, đều chỉ có dính-líu một phần, nên cũng bị lỗi “bất-định”. 

BIỂU

 

Như lập:

Tôn:  Tiếng vô thường.

Nhơn:  Vì mắt không trông thấy.

 

Ðồng-dụ: 

Như tánh giận, buồn v.v… (mắt không thấy và vô thường.

Như ruộng, nhà v.v… (mắt thấy và vô thường).

 

Dị-dụ: 

Như hư không (thường, mắt trông thấy).

Như giác tánh (thường, mắt không thấy).

 

 Cái thí-dụ thứ hai: 

Như lập: 

Tôn:

Người ta ai cũng phải chết.

Nhơn:

Vì vật hữu tình vậy.

Ðồng dụ:

Như cầm thú (hữu hình, có chết).

Như nước biển (hữu hình, không chết).

Dị-dụ:

Như hư không (vô hình, không chết).

Như tượng gỗ (hữu hình, không chết).

 Nếu cái Nhơn “vì hữu hình” này, mà dụ như cầm thú, thì cái Tôn này “có chết”; còn cái Nhơn “vì hữu hình” mà thí-dụ như nước, thì cái Tôn này “không chết”. 

Phàm Dị-dụ là bề trái của Tôn và Nhơn, nên phải dùng những vật “không chết” (trái với Tôn) và “vô hình” (trái với Nhơn) để làm thí-dụ.  Nay cái Di-dụ này chỉ trái với Nhơn được phân nửa.  Vì ngoại nhơn có thể hỏi lại rằng: Vậy “hư không, không chết” vì vô hình vậy? hay “tượng gỗ không chết” vì hữu hình vậy?  Bởi hữu-hình (tượng gỗ) vô-hình (hư không) đều không chết, nên cái Nhơn này bị lỗi “bất-định”.

  1. Tương-vi quyết-định bất-định.  

Chủ và khách lập-lượng trái nhau; song cả hai đều không có lỗi, và đều quyết-định thành-lập được.  Nhưng không bên nào phá được bên nào. 

Khách lập: 

Tôn:

Sóng thường còn.

Nhơn:

Vì sóng là nước.

Ðồng dụ:

Như điện.

 Chủ phá: 

Tôn:

Sóng là vô thường.

Nhơn:

Vì chuyển động vậy.

Ðồng dụ:

Như gió.

 Hai cái lượng này rất mâu-thuẫn nhau, song đều quyết-định thành-lập được.  Bên khách vẫn công-nhận “sóng có chuyển động”, bên chủ cũng công-nhận “sóng là nước”.  Nhưng không bên nào phá được bên nào, nên Nhơn này bị lỗi “bất-định”.  Ðây cũng vì thiếu lời lẽ khôn-khéo, để làm cho người ta phục mình.  Thuở xưa, có người hỏi: “Ai lập trước thì hơn”. 

Phải lập như vầy:           

Tôn:

Sóng không thường còn.

Nhơn:

Vì nó là nước bị gió động.

Ðồng dụ

Cũng như gió.

 6 lỗi “Bất-định” đã giải-thích rồi, bây giờ sẽ nói đến 4 lỗi Tương-vi. 

III.  BỐN LỖI “TƯƠNG-VI” 

  1. Pháp tự-tướng tương-vi.  

Cái Nhơn trái (mâu-thuẫn) với tự-tướng (lời nói trắng) của danh-từ sau. 

Như lập: 

Tôn:

Gió thường còn.

Nhơn:

Vì có lay động vậy.

Ðồng dụ:

Như hư không.

Dị-dụ

Như sóng.

Ðã có động thì làm sao lại thường còn; nên cái Nhơn “có động” này, rất trái với tiếng “thường còn” là lời nói trắng về danh-từ sau của Tôn. 

  1. Pháp sai-biệt tương-vi Nhơn.  

Cái Nhơn trái (mâu-thuẫn) với ý-hứa (ẩn-ý) của danh-từ sau. 

Như lập: 

Tôn:

Loài người quyết-định có người tạo ra (ý hứa là một vị Thần).

Nhơn:

Vì có trí khôn và mắt, tai v.v…

Ðồng dụ:

Như con do cha mẹ sanh ra.

 Trong cái Tôn này, về chữ “quyết-định có người tạo ra” là do người lập Tôn, ẩn-ý của họ muốn nói: Người tạo ấy là một vị Thần.  Và ẩn-ý của họ cho vị Thần ấy có ba đức tánh sau này: 1. Toàn trí toàn năng, 2. Thường còn, 3. Ðộc tôn.  Nhưng cái Nhơn này nó trái ngược (mâu-thuẫn) với ẩn-ý của họ:  

1.      1.      Nếu vị Thần ấy tạo ra loài người có trí khôn và mắt tai v.v… như cha mẹ sanh con; vậy cha mẹ “không toàn trí toàn năng”, vì sanh ra có những đứa con ngỗ-nghịch với cha mẹ, thì vị Thần ấy cũng “không toàn trí toàn năng”, vì tạo ra loài người mà có những kẻ oán-trách lại vị Thần ấy, và giữa loài người không biết bao nhiêu những điều bất bình-đẳng. 

2.      2.      Cha mẹ sanh ra con, đến khi già phải chết “không phải thường còn”; vậy vị Thần ấy đã sanh ra loài người, thì vị Thần ấy cũng phải chết, “không thường còn”. 

3.      3.      Cha mẹ sanh ra con tất-nhiên phải có Ông, Bà sanh ra cha mẹ, nên cha mẹ không phải “độc tôn”.  Vậy vị Thần ấy đã tạo ra loài người, thì vị Thần ấy cũng phải có vị nào lớn hơn sanh ra, nên vị Thần ấy cũng không “độc tôn”. 

Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi mâu-thuẫn với ý-hứa (ẩn-ý) của danh-từ sau là “người tạo ra”. 

  1. Hữu-pháp tự-tướng tương-vi Nhơn.  

Cái Nhơn mâu-thuẫn với lời nói trắng (tự-tướng) về danh-từ trước của Tâm.

 Như lập:

Tôn:

Phải có một ông Vô-hình, tạo ra Vũ-trụ.

Nhơn:

Vì Vũ-trụ có trật-tự vậy.

Ðồng dụ:

Như ông Kiến-trúc-sư làm nhà.

 Cái Nhơn “Vì vũ-trụ có trật-tự” này, rất trái ngược với danh-từ trước của Tôn là “Ông Vô-hình”.  Ðã Vô-hình thì làm sao tạo ra Vũ-trụ là vật hữu-hình và có trật-tự được?  Phải vật hữu-hình mới tạo ra vật hữu-hình.  Như ông Kiến-trúc-sư, vì hữu-hình mới tạo ra cái nhà hữu-hình. 

  1. Hữu-pháp sai-biệt tương-vi Nhơn.  

Cái Nhơn trái ngược với ý-hứa (ẩn-ý) về danh-từ trước của Tôn.

 Như lập: 

Tôn:

Phải có một Ðấng sanh ra vũ-trụ.

Nhơn:

Vì Vũ-trụ có thứ-tự vậy.

Ðồng dụ:

Như ông thợ làm nhà.

 Người lập lượng này, nếu nói trắng ra “Có một ông Thần”, thì sợ bên đối-phương không công-nhận, mà phải bị lỗi “Sở-biệt bất-thành”, nên họ chỉ nói một cách hồn-hàm là “Có một Ðấng”.  Song ẩn-ý của họ muốn nói “Ðấng ấy là một vị Thần”; và họ cho vị Thần này có 3 đức tánh: 1. Thường còn, 2. Cao cả, 3. Sanh vạn-vật. 

Nhưng Ðấng ấy, đã sanh ra được vạn-vật, thì Ðấng ấy tất-nhiên cũng phải bị người khác lớn hơn sanh ra và chết; không phải cao cả và thường còn.  Cũng như ông Thợ làm nhà.

Vì cái Nhơn này, trái ngược với ẩn-ý của danh-từ trước, nên bị lỗi “tương-vi”.  Ngoại-nhơn có thể lập lượng bác lại rằng: 

Như lập: 

Tôn:

Ðấng ấy phải bị người khác sanh ra và phải chết.

Nhơn:

Vì Ðấng ấy sanh ra Vũ-trụ vậy.

Ðồng dụ:

Như ông Thợ làm nhà.

 14 lỗi về Tợ Nhơn, chúng tôi đã giải-thích rồi, sau đây sẽ nói 10 lỗi về Tợ Dụ.

PHỤ BÀI HỌC ÔN

(ÔN LẠI 14 LỖI VỀ TỢ NHƠN)

            Qúi vị nên xét kỹ các cái lượng sau này, rồi chỉ ra: lỗi của Tôn, lỗi của Nhơn, và nói tại sao. 

            Lượng thứ 1. 

Tôn:

Nhơn-loại quyết-định có người tạo.

Nhơn:

Vì có trí khôn và đủ cả mắt, tai v.v…

Ðồng-dụ:

Như con, phải có cha mẹ sanh.

             Lượng thứ 2. 

Tôn:

Gió thường còn.

Nhơn:

Vì có động vậy.

Ðồng-dụ:

Như hư-không.

Dị-dụ:

Như sóng.

             Lượng thứ 3. 

Tôn:

Phải có một Ðấng sanh ra vũ-trụ.

Nhơn:

Vì vũ-trụ có trật-tự vậy.

Ðồng-dụ:

Như ông Kiến-trúc-sư làm nhà.

             Lượng thứ 4. 

Tôn:

Phải có một ông Vô-hình tạo ra vũ-trụ.

Nhơn:

Vì vũ-trụ có trật-tự vậy.

Ðồng-dụ:

Như ông Thợ làm nhà.

C. DỤ 

Phàm lấy một vậy gì mà bên đối phương đã biết và đã công-nhận, để so-sánh chứng-minh với một vật khác mà bên đối phương kia chưa biết, hoặc chưa công-nhận thì gọi là “Dụ”. 

Thí dụ như lập cái “Tôn thường còn”, thì phải lấy tất cả những vật “thường còn”, làm Ðồng-dụ; trái lại, phải lấy tất cả những vật “vô thường” làm Dị-dụ. 

Về Tợ Dụ có 10, chia làm hai loại: 

I.       TỢ ÐỒNG-DỤ, CÓ 5: 

1.          Năng-lập-pháp bất thành. 

Phàm cái Nhơn là để thành-lập cái Tôn, nên cái Nhơn là “Năng-lập-pháp” còn cái Tôn là “Sở-lập-pháp”.  Cái Dụ này trái ngược với Nhơn nên bị lỗi “bất thành”. 

Như lập: 

Tôn:

Con ngựa chạy hay.

Nhơn:

Vì có bốn chân.

Ðồng dụ:

Như con rắn hổ-ngựa.

 Cái Dụ này hiệp với Tôn (chạy hay), trái với Nhơn (thiếu chân). 

2.          Sở-lập-pháp bất thành. 

Nhơn là Năng-lập mà Tôn là Sở-lập (bị lập).  Cái Dụ này trái ngược với Tôn, nên cũng bị lỗi “bất thành”. 

Như lập: 

Tôn:

Người ta không bay được.

Nhơn:

Vì thiếu hai cánh.

Ðồng dụ:

Như mây (không cánh, bay được).

 Cái Dụ này hiệp với Nhơn (thiếu cánh), trái với Tôn (không bay). 

3.          Câu bất thành. 

Cái Dụ này trái ngược với Tôn và Nhơn.  Bởi lấy Dị-dụ làm Ðồng-dụ, nên bị lỗi “bất thành”. 

Như lập: 

Tôn:

Tiếng thường còn.

Nhơn:

Vì tai nghe vậy.

Ðồng dụ:

Như bàn, ghế.

 Bàn, ghế “vô thường” nên trái với Tôn, và “tai không nghe được”, nên trái với Nhơn. 

4.          Vô hiệp. 

Cái Dụ này không có lời phối-hiệp để kết-thúc lại cho dễ hiểu. 

Như lập:

Tôn:

Người ta phải chết.

Nhơn:

Vì có sanh vậy.

Ðồng dụ:

Như chim v.v…

 Ðáng lẽ phải nói lời phối-hiệp để kết-thúc lại như vầy:  “Người ta có sanh (Nhơn) phải có chết (Tôn).  Phàm vật gì có sanh (Nhơn) phải có chết (Tôn), như chim v.v…”, thời người ta mới dễ hiểu.  Cái này chỉ nói tắt rằng “Như chim”; làm cho người ta không hiểu: Như chim có hai cánh, hay là như chim có mỏ? nên bị lỗi “vô hiệp”. 

5.          Ðảo hiệp. 

Lời thí dụ, kết-thúc phối-hiệp lại trái ngược.  Phàm kết-thúc phối-hiệp thì phải nói cái Nhơn trước rồi cái Tôn sau. 

Như lập: 

Tôn:

Người ta phải chết.

Nhơn:

Vì có sanh vậy.

Ðồng dụ:

Phàm vật gì có sanh (Nhơn) thì phải có chết (Tôn) như chim v.v…

 Nay kết-thúc lại trái ngược, nghĩa là: Phối-hiệp Tôn trước rồi Nhơn sau.

Như lập: 

Tôn:

Người ta phải chết.

Nhơn:

Vi có sanh vậy.

Ðồng dụ:

Phàm có chết (Tôn) phải có sanh (Nhơn) như chim.

 Bởi vì nói “có sanh phải có chết” thì ai cũng thấy; còn nói “có chết phải có sanh”, người ta khó nhận. 

II.    TỢ DỊ-DỤ, CÓ 5: 

Phàm Dị-dụ là bề trái ngược của Tôn và Nhơn, nên phải hoàn-toàn trái ngược với Tôn và Nhơn. 

1.          Sở-lập-pháp bất khiển. 

Cái Dị dụ này không trái với Tôn. 

Như lập: 

Tôn:

Tiếng nói thường còn.

Nhơn:

Vì vô hình vậy.

Ðồng dụ:

Như hư không.

Dị dụ:

Như vi-trần (vi-trần hữu hình và thường còn).

               Vi-trần có hình chất mà lại thường còn.  Nếu lấy vi-trần làm Dị dụ, thì chỉ trái với Nhơn (vô hình) mà không trái với Tôn (thường còn) nên bị lỗi. 

2.                  Năng-lập-pháp bất khiển. 

Cái Dị dụ này không trái với Nhơn. 

Như lập:

Tôn:

Tiếng nói thường còn.

Nhơn:

Vì vô hình vậy.

Ðồng dụ:

Như hư không.

Dị dụ:

Như điện chớp (vô hình, không thường).

                Lấy điện chớp làm Dị dụ, thì chỉ trái với “Tôn thường còn”, mà không trái với “Nhơn vô hình”, nên bị lỗi. 

3.          Câu bất khiển. 

Cái Dị dụ không trái với Tôn và Nhơn.  Lỗi này vì lấy Ðồng dụ làm Dị dụ. 

Như lập: 

Tôn:

Người phải chết.

Nhơn:

Vì có sanh vậy.

Ðồng dụ:

Như cỏ cây.

Dị dụ:

Như loài vật.

 Phàm Dị dụ là phải trái với Tôn và Nhơn.  Nay dùng cái Dị dụ này không trái với Tôn và Nhơn nên bị lỗi. 

4.          Bất ly. 

Dị dụ không có lời kết-thúc để ly-biệt Tôn và Nhơn. 

Như lập: 

Tôn:

Tiếng nói thường còn.

Nhơn:

Vì không hình chất.

Ðồng dụ:

Những gì vô hình đều thường còn, như hư không.

Dị dụ:

Như bàn ghế.

            Về Dị dụ, đáng lẽ cũng phải có lời phối-hiệp kết-thúc để ly-biệt Tôn và Nhơn như vầy: 

“Phàm những gì vô thường, thì đều có hình chất, như bàn ghế”.  Nay chỉ nói tắt rằng:  “Như bàn ghế”.  Làm cho người ta không hiểu:  Như bàn ghế có bốn chân?  Hay như bàn ghế có cái mặt? 

Phải lưu-ý:  Về Ðồng-dụ, nên thiếu lời phối-hiệp để kết-thúc, thì gọi là “Vô hiệp”; còn bên Dị dụ, nếu thiếu lời phối-hiệp để kết-thúc thì gọi là “bất ly”. 

5.          Ðảo ly. 

Lời kết-thúc của Dị dụ, để ly-biệt Tôn và Nhơn, lại phối-hiệp một cách trái ngược. 

Như lập: 

Phàm phối-hiệp để kết-thúc của Dị dụ là phải nói Tôn trước rồi Nhơn sau, mới thuận.  Như nói:  “Những gì vô thường (Tôn) thì đều có chất ngại (Nhơn) như bình, bàn v.v…”  Nay phối-hiệp ngược lại Nhơn trước Tôn sau, nên bị lỗi “Ðảo ly”. 

Lưu-ý:  Về Ðồng dụ, khi kết-thúc, phải nói Nhơn trước rồi nói Tôn sau.  Nếu trái lại thì bị lỗi “Ðảo hiệp”.  Về Dị dụ, khi kết-thúc, phải nói Tôn trước rồi nói Nhơn sau.  Nếu trái lại thì bị lỗi “Ðảo ly”. 

10 lỗi về Tợ Dụ đã giải-thích rồi. 

PHỤ BÀI HỌC ÔN      

       Quí vị nên xét kỹ các cái lượng sau này:  Tôn thuộc về lỗi gì?  Nhơn thuộc về lỗi gì?  Và Dụ thuộc về lỗi gì? 

       Lượng thứ 1:

Tôn:

Người ta phải chết.

Nhơn:

Vì có sanh vậy.

Ðồng dụ:

Phàm có chết phải có sanh như chim v.v…

Dị dụ:

Phàm không sanh thì không chết, như hư không.

       Lượng thứ 2:

Tôn:

Tiếng nói thường còn.

Nhơn:

Vì vô hình vậy.

Ðồng dụ:

Như hư không.

Dị dụ:

Như vi-trần.

        Lượng thứ 3:

Tôn:

Tiếng nói thường còn.

Nhơn:

Vì tai nghe vậy.

Ðồng dụ:

Như hư không.

Dị dụ:

Như điện chớp.

        Lượng thứ 4:

Tôn:

Người ta phải chết.

Nhơn:

Vì có sanh vậy.

Ðồng dụ:

Như cỏ cây.

Dị dụ:

Như loài vật.

        Hoặc lập nhiều lượng khác.

Lợi-ích Học Nhơn-minh Luận 

       Trong các kinh-diển Ðại-thừa, phần nhiều Phật dạy các đệ-tử phải biết Ngũ minh (1. Nội-minh, 2. Nhơn-minh, v.v…) thời việc hóa-đạo mới được nhiều lợi-ích.  Trong Ngũ minh, Nhơn-minh là một. 

       Nhờ biết Nhơn-minh nên lời nói ít lỗi, luận-lý vững-vàng, có thể chinh-phục được các tà-thuyết, đem về chánh đạo. 

       Nhờ biết Nhơn-minh, mới học nổi được các bộ luận trong Phật-giáo.  Vì trong các bộ luận ấy, phần nhiều dùng Nhơn-minh để lập Chánh-lý và phá các tà-thuyết. 

       Tóm lại, Nhơn-minh là một môn Luận-lý học, vừa lợi-ích cho mình và lợi-ích cho người. 

       Sa-môn THÍCH THIỆN HOA

       Sửa lại và viết xong mùa Thu năm Mậu-Tuất (1958)

       Chùa Phật-Quang (Trà-Ôn).

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ X & XI)
01 - NHƠN DUYÊN
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712