Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Bài Thứ 05

BÀI THỨ NĂM

CHÁNH VĂN 

       Hỏi:  Trên đã nói sáu loại tâm-sở tương-ưng rồi, bây giờ làm sao biết được phần vị hiện khởi của các thức? 

       Ðáp:      NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN

                             TỤNG VIẾT: 

                      Y chỉ căn-bản thức

                      Ngũ thức tùy duyên hiện

                      Hoặc câu hoặc bất câu

                      Như đào ba y thủy

                      Ý-thức thường hiện khởi

                      Trừ sanh Vô-tưởng thiên

                      Cập vô-tâm nhị định

                      Thùy miên dữ muộn tuyệt. 

DỊCH NGHĨA 

       Luận-chủ nói hai bài tụng để trả lời rằng:  Sáu thức trước đều nương nơi thức Căn-bản (A-lại-da) mà hiện khởi; cũng như sóng nương nơi nước mà sanh. 

       Năm thức trước tùy duyên mà khởi; hoặc chung sanh hoặc chẳng chung sanh.  Duy có ý-thức thường hiện-khởi, trừ ra năm chỗ nó không sanh khởi: 

1.      Sanh ở cõi trời Vô-tưởng.

2.      Nhập định Vô-tưởng.

3.      Nhập định Diệt-tận.

4.      Ngủ mê.

5.      Chết giả. 

LƯỢC GIẢI

       Sáu thức trước, bên trong đều nương nơi thức Căn-bản (A-lại-da) bên ngoài nhờ các duyên (căn, cảnh, tác-ý v.v…) và tùy theo phận-vị của nó mà sanh khởi không đồng.  Nếu đủ duyên thì sanh khởi, còn thiếu duyên thì nó cũng không sanh.  Cũng như sóng nương nơi nước và nhờ gió, nên có khi sanh, khi diệt.  Duy có ý-thức vì ít duyên nên dễ đủ; vì thế mà được thường sanh-khởi, chỉ trừ năm chỗ không sanh: 

1.      Trời vô-tưởng; do hành-giả khi tu định, nhàm ghét diệt trừ cái “tưởng”, mà được sanh về cõi trời này, nên cõi trời này không có ý-thức.

2.      Nhập định vô-tưởng; do hành-giả diệt trừ 6 thức trước, mới được định này.

3.      Nhập định Diệt-tận; do hành-giả diệt trừ phần hiện-hành của bảy thức trước, mới được định này.  Hai định trên đây đều không có “ý-thức”.

4.      Khi ngủ mê không chiêm bao, cũng không có ý-thức.

5.      Khi bịnh nặng gần chết, hoặc khi bất-tỉnh nhơn sự (chết giả) cũng không có ý-thức. 

Xem biểu đồ 

Dụ:

1.      Nước: Dụ thức A-lại-da.

2.      Sóng:

a.       Có gián-đoạn: Dụ 5 thức trước.

b.      Không gián-đoạn: Dụ ý-thức thường hiện khởi (trừ 5 chỗ). 

Năm chỗ ý-thức không sanh: 

1.      Trời Vô-tưởng.

2.      Ðịnh Vô-tưởng.

3.      Ðịnh Diệt-tận.

4.      Ngủ mê (không chiêm bao).

5.      Chết giả.

CHÁNH VĂN 

       Hỏi:  Trên đã phân-biệt rành rõ hành-tướng của ba thức năng-biến, đều nương nơi hai phần, rồi tự nó biến ra; bây giờ làm sao biết được các pháp, chỉ do thức biến hiện, rồi giả gọi là Ngã, Pháp, chớ không phải thật có, nên nói: “tất cả pháp Duy-thức”? 

       Ðáp:      NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN

                             TỤNG VIẾT: 

                      Thị chư thức chuyển biến

                      Phân biệt, sở phân biệt

                      Do thử, bỉ giai vô

                      Cố nhứt thế Duy-thức. 

DỊCH NGHĨA 

       Luận-chủ nói một bài tụng để trả lời rằng:  Chỉ do các thức biến ra Năng-phân-biệt (kiến-phần) và Sở-phân-biệt (tướng phần).  Song Năng-phân-biệt (thử) và Sở-phân-biệt (bỉ) đều không thật có, nên nói: “Tất cả pháp Duy-thức”. 

LƯỢC GIẢI 

       Mỗi thức và mỗi Tâm-sở đều có 4 phần: 

1.      Kiến-phần (phần Năng-phân-biệt).

2.      Tướng-phần (phần bị phân-biệt, tức là cảnh-vật).

3.      Tự-chứng-phần: Phần này tự chứng-minh cho Kiến-phần.

4.      Chứng-tự-chứng-phần: Phần này chứng-minh cho phần tự-chứng. 

Trong bốn phần này, về phần thứ ba là Tự-chứng, không những có công-năng chứng-minh cho phần thứ hai là Kiến-phần, mà cũng có công-năng đặc-biệt là trở lại chứng-minh phần thứ tư là Chúng-tự-chứng-phần.  Bởi thế nên không cần phải có phần thức năm. 

Thứ lớp bốn phần duyên nhau:

1.      Tướng-phần - phần bị phân-biệt: cảnh.

2.      Kiến-phần - phần năng-phân-biệt.

3.      Tự-chứng-phần - Tự chứng-minh cho Kiến-phần và Chứng-tự-chứng phần

4.      Chứng-tự-chứng-phần - Chứng-minh cho Tự-chứng-phần. 

Phần 1 và 2:  Hai phần này là “dụng ở bên ngoài.

Phần 3 và 4:  Hai phần này là “thể” ở trong. 

       Xin nói một thí-dụ để giải rõ bốn phần:  Thí như anh A và anh B hùn nhau buôn-bán.  Anh A ra tiền (vật có hình-tướng) là dụ cho “tướng phần”.  Anh B ra công (không hình-tướng) là dụ cho “Kiến-phần”.  Hai người lập một tờ hợp-đồng (giao-kèo) để chứng-minh một bên ra công và một bên xuất của.  Tờ hợp-đồng là dụ cho “Tự-chứng phần”.  Vì hai anh tranh-giành nhau, nên đem đến quan kiện.  Ông quan chiếu theo tờ hợp-đồng mà phân-xử.  Ông quan là dụ cho “Chứng-tự-chứng phần”. 

       Trên đã nói rõ hành-tướng của 3 thức Năng biến:  Từ nơi hai phần bên trong là Tự-chứng-phần và Chứng-tự-chứng phần, biéen sanh ra hai phần bên ngoài là Kiến-phần và Tướng-phần.  Vậy thì hai phần bên trong là “thể” làm chỗ bị y-chỉ (nương-tựa), còn hai phần bên ngoài là “dụng” là “năng y-chỉ”. 

       Thí dụ như con ốc Hương, đầu mà mình con ốc là dụ cho “Tự-chứng phần” và “Chứng-tự-chứng phần”; còn hai cái vòi là dụ cho Kiến-phần và Tướng-phần.  Hai vòi có khi lòi ra, có lúc lại thụt vào, là dụ cho cái dụng Kiến-phần và Tướng-phần, sanh-diệt không thường; còn cái đầu và mình của con ốc thì thường còn, để dụ cho cái thể Tự-chứng phần và Chứng-tự-chứng phần, không sanh không diệt. 

       Luận-chủ và ngoại-nhơn hai bên rất mâu-thuẫn nhau.  Nếu lý Duy-thức của Luận-chủ được thành, thì sự chấp thật có Ngã, Pháp của ngoại-nhơn không thành; trái lại, nếu sự chấp Ngã, Pháp của ngoại-nhơn được thành, thì lý Duy-thức của Luận-chủ bất thành. 

       Ý của Ngoại-nhơn hỏi:  Làm sao biết Ngã, Pháp đều nương nơi thức biến ra, chẳng phải thật có, nên nói “Tất cả pháp đều Duy-thức”? 

       Ý của Luận-chủ đáp:  Trên đã nói ba thức Năng-biến, mỗi thức đều từ nơi tự-thể mà biến sanh ra Kiến-phần và Tướng-phần:  Kiến-phần là phần năng-phân-biệt, mà Tướng-phần là phần bị phân-biệt.  Phần bị phân-biệt là các cảnh vật như núi, sông, đại-địa v.v…  Phần năng-phân-biệt tức là tác-dụng thấy, nghe, hay, biết các cảnh vật. 

       Bởi phần năng phân-biệt (thấy) và phần bị phân-biệt (cảnh) đều do thức-thể biến ra, toàn không thật có, nên nói “Tất cả pháp Duy-thức”. 

       Thức-thể (tự chứng phần) sanh ra Dụng: 

-         Phần biết (Kiến) và phần bị biết (Tướng); đều là Thức.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ IX (Phần 2))
BÀI THỨ 06
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712