BÀI THỨ MƯỜI
X. CHƯƠNG PHỔ GIÁC
1. NGÀI PHỔ GIÁC BỒ TÁT HỎI PHẬT.
Khi ấy ngài Phổ Giác Bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh
bên hữu của Phật ba vòng, kính cẩn lạy Phật và quỳ thẳng chắp tay bạch rằng:
- Bạch đức Đại bi Thế Tôn, ngài
đã vì chúng sanh nói các bịnh (bốn tướng) của người tu thiền, khiến cho đại chúng
gội sạch các mê lầm nơi tâm và được an ổn. Đây là một việc lợi ích lớn chưa
từng có.
- Bạch Thế Tôn, chúng sanh đời sau
cách Phật lần xa, các vị Thánh hiền lại ẩn, tà sư ngoại đạo rất thạnh hành, vậy,
trên đường tu hành:
1. Phải cầu bực nào để dạy bảo?
2. Phải y phương pháp nào tu hành?
3. Phải làm theo hạnh nào?
4. Phải trừ những bịnh gì?
5. Phải phát tâm thế nào?
Xin Phật từ bi chỉ dạy, khiến cho những chúng sanh còn mê muội, khỏi bị đọa tà kiến.
Ngài Phổ Giác Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, cúi đầu kính lạy, rồi trở về chỗ
cũ.
LƯỢC GIẢI
Chữ “Phổ Giác” là giác ngộ cùng khắp.
Trên đường tu hành, hành giả phải gặp nhiều chướng ngại. Những chướng ngại
ấy đều do chấp bốn tướng mà sanh ra. Bởi thế trên chương thứ chín, ngài Tịnh
chư Nghiệp Chướng Bồ tát đứng lên thưa hỏi, để Phật chỉ bày bốn tướng, cho hành
giả biết rõ đặng trừ. Khi bốn tướng trừ hết rồi thời các nghiệp chướng được
thanh tịnh.
Song trên đường tu hành, hành giả còn bị mây
vô minh rất vi tế, tức là bốn bịnh sau nầy che mặt trăng Viên Giác của hành giả,
làm cho trăng Viên Giác chiếu soi không được phổ biến.
Vì thế nên đến chương thứ 10 nầy, ngài Phổ
Giác Bồ tát đứng lên thưa hỏi cầu Phật chỉ dạy thêm, để cho hành giả hiểu biết,
đặng dẹp trừ hết mây vô minh, thời trăng Viên Giác kia mới được chiều soi phổ biến.
TÓM LẠI, ĐOẠN NÀY CÓ 3 PHẦN:
1. Trước ngài Phổ Giác tán thán Phật
đã chỉ rõ những chứng bịnh của Thiền giả là bốn tướng vừa nói trên, để chúng sanh
biết bịnh đặng trừ, sẽ được an ổn.
2. Ngài Phổ Giác Bồ tát thương xót
chúng sanh đời sau, cách Phật xa pháp, các vị hiền thánh thì ở ẩn, ngoại đạo tà
sư lại thạnh hành làm cho người tu hành dễ lạc vào tà kiến.
3. Ngài Phổ Giác Bồ tát, cầu Phật
chỉ dạy 5 điều như sau:
a) Hành giả phải cầu ai làm minh sư để chỉ dẫn trên đường
tu hành?
b) Y theo phương pháp nào để tu?
c) Phải làm những hạnh gì?
d) Phải trừ những bịnh gì?
e) Làm sao để phát tâm?
2. PHẬT KHEN NGÀI PHỔ GIÁC BỒ TÁT.
Khi ấy, đức Thế Tôn khen ngài Phổ Giác Bồ tát và dạy rằng:
- Nầy Thiện nam! Hay lắm và
quí lắm! Ông vì chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai đường lối tu hành như
thế. Đó là ông bố thí cho chúng sanh đời sau con mắt đạo không sợ (đạo nhãn
vô úy), khiến cho chúng sanh đặng thành Thánh đạo. Vậy các ông nên chăm
chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ giáo.
Khi ấy ngài Phổ Giác Bồ tát và đại chúng đều hoan hỷ và lẳng lặng vâng nghe lời
Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật khen ngài Phổ Giác, vì chúng sanh cầu Phật chỉ dạy đường lối tu hành
để cho chúng sanh đi thẳng đường đến nơi Thánh quả, không còn lo sợ đọa vào tà kiến.
“Mắt đạo không
sợ”. - Đối với đạo hiểu biết được rõ ràng như con mắt thấy
đường đi, nên gọi là “con mắt đạo” (đạo nhãn). Trên đường tu hành không lo
sợ đọa vào tà kiến, nên nói “không sợ” (vô úy).
3. PHẬT DẠY NGÀI PHỔ GIÁC BỒ TÁT.
- Nầy Thiện nam! Chúng sanh
đời sau muốn phát tâm tu đại thừa thì phải cầu Thiện Tri Thức, tức là những người
hiểu biết chơn chánh (chánh tri kiến). Những vị ấy, tâm chẳng trụ ở nơi tướng
phàm phu và cũng không dính mắc nơi cảnh của Thinh văn, Duyên giác; tuy hiện ở nơi
cảnh trần lao mà tâm vẫn thường thanh tịnh. Có khi các vị ấy thị hiện đồng
ăn đồng ở với người tội lỗi (đồng sự nhiếp) mà thường khen ngợi các hạnh thanh tịnh
(phạm hạnh), không để cho chúng sanh làm việc tội lỗi.
- Hành giả phải cầu những người
như vậy, dạy bảo tu hành, để thành tựu quả Phật.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật trả lời câu hỏi thứ nhứt của ngài Phổ Giác Bồ tát hỏi: “Phải
cầu những bực nào dạy bảo?” - Đại ý Phật trả lời: Người tu hành muốn
được thành quả Phật, phẳi đủ hai điều kiện:
1. Bên trong, hành giả phải phát tâm đại thừa làm
chánh nhơn.
2. Bên ngoài, phải nhờ các Thiện hữu tri thức, hướng
dẫn đường lối tu hành làm chánh duyên. Nếu có nội nhơn mà thiếu ngoại duyên,
hay có ngoại duyên mà thiếu nội nhơn đều không thành tựu.
Song cầu Thiện hữu tri thức, phải là người “Chánh tri kiến”. - Làm sao biết
người “Chánh tri kiến?” - Hành giả phải dùng hai phương diện thuận cảnh và
nghịch cảnh sau đây quan sát, sẽ phân biệt được thế nào là “Chánh tri kiến”.
1.
Thuận cảnh: Vị thiện hữu tri thức nầy, tâm không trụ nơi tướng
phước báo của phàm phu ở cõi người hay cõi trời, vào cũng không trụ nơi cảnh thanh
nhàn yểm thế tu ích kỷ tiêu cực của Tiểu thừa là Thanh văn và Duyên giác.
2.
Nghịch cảnh: Vị Thiện hữu tri thức nầy hiện thân ở trong cảnh
nhiễm ô (trần lao) để hóa độ chúng sanh, mà tâm chẳng ô nhiễm thật hành theo “đồng
sự nhiếp” của bồ tát để hóa độ người.
Có khi vị nầy phải thị hiện
làm việc lầm lỗi như người nhưng không bao giờ dùng lý luận miễn cưỡng để bào chữa
lỗi mình, trái lại luôn luôn khen ngợi hạnh thanh tịnh và tự chỉ trích lỗi lầm của
mình.
Ngài Như Sơn giải nghĩa chữ “Thiện Tri Thức”
như vầy” Thiện là hay, khéo. Tri là biết bịnh. Thức là biết thuốc.
Nghĩa là vị nầy có tài biết chơn vọng, tà chánh, biết tâm bịnh của chúng sanh, biết
pháp dược của Phật để đối trị.
- Nầy Thiện nam! Chúng sanh
đời sau nếu gặp vị Thiện hữu Tri thức như thế phải hết lòng cúng dường, không tiếc
thân mạng. Vị Thiện hữu Tri thức nầy khi giữ bốn Oai nghi thanh tịnh, hành
giả cung kính đã đành, mà khi thị hiện lẩn lộn với chúng sanh làm các tội lỗi, để
giáo hóa chúng sanh (đồng sự nhiếp), hành giả cũng nhớ nên sanh tâm khinh dễ.
- Nầy Thiện nam! Đối với Thiện
hữu Tri thức nầy, mà hành giả không khởi một niệm khinh thường, thì hoa lòng (tâm
hoa) sẽ được rộng mở, chiếu sáng khắp cả mười phương thế giới và thành tựu quả Phật.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn nầy Phật dạy: “Y Pháp bất y nhơn”. Trong luận Trí Độ nói:
“Nếu vị Thiện hữu Tri thức kia, có thể giải thích các nghĩa lý sâu xa của Phật,
dẫn dắt hành giả tu theo chánh Đạo được lợi ích, thì hành giả phải hết lòng cung
kính, như tôn kính Phật, chẳng nên nghĩ những việc lỗi lầm của Thiện hữu Tri thức.
Thí như cái đãy xấu đựng ngọc, chớ nên vì đãy xấu mà bỏ vật báu. Người có
ghẻ lát cầm đuốc đưa hành giả qua con đường nguy hiểm trong lúc ban đêm, chớ nên
chê người lát mà không dùng đuốc sáng”. Người cầu đạo cũng thế, khi tìm được
Thiện hữu Tri thức có thễ dẫn dắt hành giả đi trên đường tu hành, thì hành giả phải
trước sau một lòng tôn kính. Khi Thiện hữu Tri thức giữ giới thanh tịnh, hành
giả cung kính đã đành, mà khi Ngài vì chúng sanh thật hành theo hạnh “Đồng sự nhiếp”
của Bồ tát, người cầu đạo không nên thấy thế mà sanh tâm chấp nhứt và khinh thường.
Được như thế, mới chứng được Phật đạo.
4. PHẬT NÓI BỐN BỊNH.
- Nầy Thiện nam! Vị Thiện
hữu Tri thức kia đã chứng được diệu pháp và rời cả bốn bịnh sau nầy:
A. Bịnh tác (làm các việc
lành).
- Như có người chấp như thế nầy:
“Bản tâm của tôi, vì muốn cầu Viên Giác nên làm tất cả các hạnh”. Song tánh
Viên giác kia không phải do làm mà được. Bởi hành giả lấy cái “làm” để cầu
Viên giác, nên gọi là “bịnh tác”, (bịnh làm).
LƯỢC GIẢI
Chữ “tác” nghĩa là làm. Tánh Viên giác đâu có phải do “làm” mà được.
Cũng như mặt trăng kia đâu phải do vẹt mây mới có. Bởi thế nên hành giả chấp
“Phải làm các hạnh lành để cầu nhập Viên giác”, thì không có thể được. Vì
tánh Viên giác là thanh tịnh, vô vi và vô lậu, mà hành giả lại dùng pháp hữu vi
để cầu cảnh giới vô vi thanh tịnh, thì không thể được, nên gọi là “bịnh làm”.
Đọc đến đoạn nầy, học giả không sao khỏi thắc mắc: “Tại sao bài trước Phật
dạy: “Muốn nhập Viên giác, phải tinh tấn bỏ các việc dữ, làm các việc lành v.v…”
Đến đoạn nầy Phật lại nói: “…Tánh Viên
giác không phải do làm các hạnh làm mà được, nếu chấp do làm mà được thì thành ra
bịnh “Tác” v.v…” Lời của Phật nói trước sau in tuồng mâu thuẫn. Nếu
không suy nghĩ kỹ thì học giả sẽ không hiểu.
Chúng tôi thường thí dụ: muốn cho lớp học được
yên tịnh, thời phải làm sao cho lớp đừng có tiếng động, nếu có tiếng động thì lớp
học chẳng được yên tịnh. Cũng như muốn đặng tánh Viên giác vô vi thì không
thể dùng pháp hữu vi vọng động mà cầu. Nếu dùng hữu vi vọng động mà cầu thì
không bao giờ đặng Viên giác vô vi thanh tịnh.
Mặc dù như thế, song người muốn nhập Viên giác,
quyết định phải trải qua hai giai đoạn:
1. Gia đoạn đầu tiên, người muốn nhập
Viên giác thanh tịnh phải có học có tu, bỏ các việc dữ, làm các việc lành v.v…
Cũng như các ông thầy giáo thấy học trò làm ồn, muốn cho lớp học được yên tịnh,
giai đoạn đầu tiên phải dùng tiếng ồn để trị ồn. Nghĩa là ông thầy giáo phải
gỏ thước trên bảng cho lớn thì các học trò mới hết làm ồn. Cũng như người
đời nói: dùng độc trị độc, trong đạo nói: lấy vọng để trừ vọng.
Đến khi học trò đã yên lặng rồi, mà thầy giáo
vẫn gỏ hoài trên bảng để mong cho lớp học được yên tịnh, thì không thể được.
Vì tiếng gõ là tiếng động, rất trái với tịnh, làm sao lấy cái “động” để cầu cái
“tịnh” cho được. Cũng như người dùng cái tạo tác hữu vi, để cầu Viên giác
vô vi thanh tịnh, không thể được.
2. Vì thế, nên bước qua giai đoạn thứ
hai: Thầy giáo phải thôi gõ bảng, lớp học mới hoàn toàn yên tịnh. Cũng
như hành giả phải trừ cái bịnh “làm” mới đặng Viên giác thanh tịnh.
Người muốn đến bờ giải thoát, trước hết phải
dùng cái bè tu học để qua sông mê. Song khi đã đến bờ rồi mà cứ ôm cái bè
ấy mãi thì làm sao lên bờ được.
Tóm lại, hành giả muốn nhập Viên giác thanh
tịnh phải trải qua hai giai đoạn:
1. Giai đoạn đầu tiên, Hành giả phải
dùng cái bè tu học, bỏ dữ làm lành để qua sông mê. Hay nói cách khác là dùng
tiếng gõ bảng của thầy giáo để trừ tiếng ồn của học trò.
2. Đến giai đoạn tối hậu, Hành giả phải dùng cái bè hữu vi tu học mới mong
lên bờ giải thoát vô vi kia được. Hay đổi lại nói: ông thầy Giáo phải thôi
gõ bảng thì trong lớp mới đặng yên tịnh.
Cũng ý nầy, trong kinh “Tứ thập nhị chương” Phật dạy: “…Tu vô tu tu, chứng
vô chứng chứng…”, nghĩa là: tu đến chỗ vô tu mới thật tu, chứng đến chỗ vô chứng
mới thật là chứng v.v…
Bởi thế nên cổ nhơn có dạy rằng: “Hữu vi tuy ngụy, xả chi tắc Phật đạo nan
thành”: Các việc tu hành về hữu vi tuy rằng hư ngụy chẳng nhằm chi, nhưng
nếu hành giả bỏ đi thì đạo Phật vô vi khó thành. Hay là câu: “Thật tế
lý địa bất thọ nhứt trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp”: Đành rằng chỗ
lý tánh chơn thật (Viên giác) không thọ một mảy trần, nhưng về sự tướng tu hành
thì muôn điều không bỏ một việc lành nào.
B. Bịnh nhậm (mặc kệ, không
tu hành)
- Nầy Thiện nam!
Như có người chấp như thế nầy: “Tôi nay không cần đoạn sanh tử và cũng không
cầu Niết bàn. Người muốn cầu Viên giác, chớ nên móng niệm diệt sanh tử hay
khởi Niết bàn, mặc tình cho sanh tử hay Niết bàn, tùy pháp tánh mà sanh hay diệt”.
- Hành giả chấp
như thế là bị bịnh nhậm (mặc kệ); vì tánh Viên giác kia, đâu có phải để mặc (nhậm)
như vậy mà nhập được.
LƯỢC GIẢI
Chữ “Nhậm” là mặc kệ. Bịnh này do hành giả chấp: “Tánh Viên giác không
phải tu hành, làm các hạnh lành v.v… mà nhập được”, nên hành giả để mặc kệ cho nghiệp
lực xoay chuyển, chẳng sợ tội lỗi, không ham phưóc lành, sanh tử không chê, Niết
bàn chẳng quí, vì thế nên không nhập được Viên giác.
C. Bịnh chỉ (Dứt các vọng
niệm)
- Nầy Thiện nam! Như có người
chấp như thế nầy: “Tôi nay muốn cầu Viên giác, nên phải dứt hết các vọng niệm,
đặng tất cả pháp bình đảng vắng lặng”.
- Chấp như thế là bị bịnh “chỉ”
vì tánh Viên giác kia, đâu có phải do “dừng chỉ” các vọng mà nhập được.
LƯỢC GIẢI
Chữ “Chỉ” là dứt các vọng niệm. Bởi hành giả thấy bịnh “Tác”, làm cho tâm
khởi động bịnh “Nhậm” (mặc kệ) làm tâm phóng túng, cả hai không nhập Viên giác được,
nên Hành giả xoay trở về nơi “Chỉ” (dừng đứng).
Vì vọng niệm mà thấy các pháp sai khác, không được bình đẳng, cho nên Hành giả tu
“Chỉ” để dứt vọng niệm. Đâu biết rằng: Tánh Viên giác không có “niệm”
nếu khởi niệm thì trái. Viên giác không có “Chỉ”, nếu Hành giả lại “Chỉ” thì
làm sao nhập được Viên giác.
D. Bịnh diệt (Diệt các
phiền não)
- Nầy Thiện nam! Như có người
chấp như thế nầy: “Tôi nay muốn cầu Viên giác, nên vĩnh viễn đoạn các phiền
não, nào thân tâm, nào cảnh vật tất cả đều hư vọng không thật có, rốt ráo vắng lặng”.
Dùng cái “diệt” (vắng lặng) mà cầu Viên giác như thế là mắc bịnh diệt; vì tánh Viên
giác đâu có phải chỉ vắng lặng.
LƯỢC GIẢI
Chữ “diệt” là dứt các phiền não. Tâm
và cảnh đều vắng lặng. Song tánh Viên giác vừa tịch (vắng lặng) lại vừa chiếu
(linh tri). Tịch và Chiếu không hai. Hành giả chỉ chấp một bên “tịch”
thì không hợp với tánh Viên giác.
- Tóm lại, người cầu đạo phải rời
bốn bịnh trên mới được nhập Viên giác thanh tịnh. Người quán sát để trừ bốn
bịnh như thế là chánh quán; nếu trái lại là Tà quán.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy tóm lại bốn bịnh trên. Chữ “Tác” là làm; “Nhậm” là không làm, để
mặc kệ; “Chỉ” là dừng chỉ các vọng niệm đương sanh và sẽ sanh; “Diệt” là dứt các
phiền não đã sanh. Bởi tánh Viên giác bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh,
bất tăng bất giảm, vô vi vô lậu, mà Hành giả dùng Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt v.v… để cầu,
thì không hiệp với tánh Viên giác.
Ngài Như Sơn nói: Đem bốn bịnh “Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt” mà chiêm nghiệm lại
tự tâm của mình, nếu còn một món nào thì cũng đều là bịnh cả; phải trừ hết bốn bịnh
nầy mới được nhập Viên giác thanh tịnh.
5. PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ BA: “PHẢI LÀM
NHỮNG HẠNH GÌ?”
- Nầy Thiện nam! Chúng sanh
đời sau muốn tu hành suốt đời phải kính trọng cúng dường Thiện hữu Tri thức.
Khi Thiện hữu Tri thức ở gần gũi, hành giả chớ nên khinh lờn. Khi Thiện hữu
Tri thức đi xa, hành giả chớ nên hờn giận.
- Khi Thiện Tri Thức hiện ra cảnh
thuận hay nghịch, tâm hành giả phải như hư không, chớ nên thay đổi. Hành giả
phải rõ biết: thân tâm mình cùng thầy bạn và các chúng sanh, đồng một bản thể bình
đẳng, rốt ráo không khác. Hành giả phải tu hành như thế mới nhập được Viên
giác.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật trả lời câu hỏi thứ ba:
“Phải làm những hạnh gì?”
Hạnh Bồ tát rất nhiều nhưng việc thờ Thầy là
điều rất cần thiết. Vì đời mạt pháp nhược ma cường, nếu không có Minh sư chỉ
dẫn thì hành giả không sao khỏi lạc vào đường tà. Bởi thế nên hành giả phải
suốt đời cung kính phụng sự Thầy. Dù cho Thiện tri thức làm những điều thuận
ý hay nghịch lòng, hành giả cũng phải giữ một niềm tôn kính, tâm như hư hkông chớ
nên thay đổi.
Hành giả phải quán sát: Thầy bạn cùng
chúng sanh và mình đều đồng một thể Viên giác, không riêng khác. Do đó hành
giả mới bỏ được tánh kiêu mạn của mình để thờ thầy, quên bản ngã để độ sanh.
Phải tu hạnh như thế, mới nhập được Viên giác.
6. PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ TƯ: “PHẢI TRỪ
BỎ BỊNH GÌ?”
- Nầy Thiện nam! Chúng sanh
đời sau không được thành đạo, đều do tất cả hạt giống thương ghét, nhơn ngã, từ
vô thỉ đến giờ. Vì thế nên chẳng được giải thoát.
- Nếu người xem những kẻ oan gia
cũng như cha mẹ không khác, đối với các Pháp, tâm cũng không thương ghét, phân biệt
tự tha, thì người ấy sẽ trừ được các bịnh.
LƯỢC GIẢI
Đoạn trước Ngài Phổ Giác Bồ tát hỏi Phật:
“Phải trừ những bịnh gì?” - Đoạn nầy Phật trả lời: “Phải trừ bịnh thương
ghét”.
Đành rằng trong bài thứ 9, Phật đã dạy trừ
thương ghét, nhưng chỉ nói về phần thô (hiện hành). Đến đoạn nầy Phật dạy
trừ về phần vi tế của thương ghét tức là chủng tử. Nếu còn một chút ít thương
ghét ngấm ngầm bên trong làm chướng ngại, thì hành giả không thể nhập được Viên
giác thanh tịnh.
Bao giờ hành giả đối với kẻ oan gia, xem cũng
như cha mẹ bình đẳng không khác, xem sanh tử và Niết bàn chẳng hai, thì hành giả
mới đoạn được chủng tử của thương ghét và mới có thể nhập Viên giác thanh tịnh.
7. PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ NĂM: “PHẢI PHÁT
TÂM THẾ NÀO?”
- Nầy Thiện nam! Chúng sanh
đời sau muốn cầu Viên giác, thì phải phát tâm như thế nầy: “Tôi nguyện độ
tất cả chúng sanh khắp cả hư không, đều được rốt ráo vào Viên giác; người được Viên
giác không chấp ở nơi Viên giác; trừ hết các tướng Nhơn và Ngã v.v…”
- Phải phát tâm như vậy, mới khỏi
đọa vào tà kiến.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy, Phật trả lời câu hỏi thứ 5 mà ngài
Phổ Giác Bồ tát đã hỏi Phật: “Phải phát tâm thế nào?”
Phật trả lời phát tâm như vầy, mới khỏi đọa
vào tà kiến:
1. Phát tâm quảng đại: Nguyện độ tất cả chúng
sanh (noãn. Thai, thấp, hóa) trong mười phương.
2. Phát tâm rốt ráo: Độ chúng sanh nhập Viên
giác cứu kính.
3. Phát tâm chơn thường: Ở trong Viên giác mà
không khởi vọng chấp nơi Viên giác.
4. Phát tâm không điên đảo: Không khởi vọng
tưởng điên đảo chấp các tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanh, Thọ mạng và tướng độ
sanh.
Hai món phát tâm trước là Đại bi, hai món phát tâm sau là Đại trí. Bi và Trí
được viên dung là do phát bốn món tâm trên được tròn. Câu hỏi của Ngài Phổ
Giác giống như trong kinh Kim Cang, câu hỏi của ngài Tu Bồ Đề: “Vân hà ưng
trụ”: (phải trụ tâm như thế nào).
Đoạn nầy nói chữ “Phát tâm” nghĩa là: Tâm phát nguyện. Như người đời
nói “Lập chí”. Nhờ phát nguyện hay lập chí mà người đời tu hành vượt qua bao
nhiêu trở lực khó khăn và thúc đẩy tu hành mau được thành công. Nếu “nguyện”
rất thiết, thì hạnh mới chuyên cần. Do đó mà mau được kết quả. Các Đức
Phật cũng nhờ phát nguyện rồi y theo nguyện đó tu hành mà được thành đạo chứng quả.
Hành giả nếu không có “nguyện lực” của mình làm động cơ thúc đẩy trên đường tu hành,
thì quả Phật khó mà đạt được.
8. PHẬT NÓI BÀI KỆ TÓM LẠI CÁC NGHĨA TRÊN
Khi ấy đức Thế Tôn muốn nói tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài
kệ rằng:
Phổ Giác! Ông nên biết:
Các chúng sanh đời sau,
Muốn cầu Thiện Tri Thức,
Phải cầu người chánh kiến,
Tâm xa lìa Nhị thừa,
Và trừ bốn món bịnh:
Làm, dừng, mặc kệ, diệt.
Gần Thầy chớ khinh lời,
Cách Thầy chớ sầu hận.
Thấy những cảnh giới lạ,
Tâm phải sanh hy hữu.
Xem như Phật ra đời
Chẳng phạm các tội lỗi
Giới căn hằng thanh tịnh
Độ tất cả chúng sanh
Rốt ráo vào Viên giác
Không còn tướng Ngã, Nhơn.
Phải y chánh Trí huệ
Mới được khỏi tà kiến
Chứng “Giác” vào “Niết bàn”.
LƯỢC GIẢI
Đại ý bài kệ nầy nói tóm tắt lại các nghĩa trên: Các chúng sanh đời sau muốn
cầu Tihện tri thức, phải tìm người chánh kiến. Làm sao biết chánh kiến?
Là trừ bốn bịnh và xa lìa tư tưởng Nhị thừa.
Cách đối xử với Thiện Tri Thức: khi thân cận chớ nên khinh lời, khi xa cách chớ
nên sầu hận. Khi thấy Thiện Tri Thức hiện ra cảnh thuận hay nghịch, Hành giả
chớ nên vì thấy thế mà đổi tâm, phải lấy làm hy hữu và kính như Phật ra đời.
Hành giả phải giữ giới thanh tịnh, không phạm các tội lỗi và độ các chúng sanh,
rốt ráo vào Viên giác.
Hành giả phải y trí huệ chơn chánh, trừ các tướng Ngã Nhơn mới khỏi
đọa tà kiến và được nhập Viên giác hay chứng quả Niết bàn.