BÀI THỨ NĂM
V.- CHƯƠNG DI LẶC BỒ TÁT
1.- NGÀI DI LẶC BỒ TÁT HỎI PHẬT
Khi đó ngài Di Lặc Bồ tát ở trong đại
chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng và chắp tay kính cẩn, đảnh lễ
dưới chân Phật, rồi quỳ thẳng bạch rằng:
-
Bạch đức Đại bi Thế Tôn, ngài đã vì các vị Bồ tát và đại chúng, mở kho báu bí mật
của Như Lai (Viên Giác cảnh giới) và làm cho đại chúng hiện tại cùng chúng sanh
đời sau được con mắt đạo sáng suốt không lo sợ, phân biệt được việc tà chánh, hiểu
sâu lý luân hồi, đối với cảnh Đại Niết Bàn (Niết bàn Đại thừa) sanh lòng tin chắc
chắn, không còn khởi các vọng chấp, trở lại cảnh giới luân hồi nữa.
-
Bạch Đức Thế Tôn:
1. Các vị
Bồ tát và chúng sanh đời sau, làm sau đoạn được gốc rễ luân hồi, để vào biển Đại
Tịch diệt của Như Lai?
2. Có mấy
loại chúng sanh luân hồi?
3. Có mấy
hạng người tu theo đạo Bồ đề của Phật?
4. Khi Bồ
tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng sanh?
-
Cúi xin đức Thế Tôn, rủ lòng đại bi cứu thế, chỉ dạy cho các vị Bồ tát hiện tại
và chúng sanh đời sau, khiến cho chúng sanh, gương lòng được sáng tỏ, mắt trí huệ
trong xanh, viên ngộ được “Tri kiến vô thượng” của Như Lai.
Ngài Di Lặc Bồ tát thưa thỉnh như vậy
ba lần, và kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Vì
trong chương Kim Cang Tạng, Phật dạy: “Trước phải đoạn gốc rễ của luân hồi từ vô
thỉ…,” nên chương nầy ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “…Làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi?
Và có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
Đại
ý đoạn nầy ngài Di Lặc Bồ tát hỏi:
1. Làm sao
đoạn được gốc rễ luân hồi để vào biển Đại Niết Bàn của Như Lai?
2. Có mấy
loại chúng sanh luân hồi?
3. Có mấy
hạng người tu đạo Bồ đề của Phật?
4. Khi Bố
tát nhập thế độ chúng sanh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng sanh?
Biển Đại Tịch Diệt - Tức là Niết Bàn của Đại thừa, rộng rãi bao
la như biển cả, đã thanh tịnh mà yên lặng, nên gọi rằng “Tịch diệt.” Đủ cả
bốn đức là: Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã và Chơn tịnh. Cũng là một cái
tên khác của Viên Giác hay Chơn Tâm.
Đức Di Lặc Bồ Tát - Tiền thân:
Trong vô số kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, lúc
bấy giờ ngài (đức Di Lặc) và đức Phật Thích Ca (tiền thân) đồng phát tâm Bồ đề.
Đến khi đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh ra đời thì ngài mới phát tâm xuất gia, nhưng
tánh hay giải đải, quen theo lối phong lưu đài các, phóng túng, chẳng chịu thúc
liểm tu hành, nên thành Phật trễ sau đức Thích Ca, vào tiểu kiếp thứ mười.
Về
sau nhờ đức Thích Tôn dạy cho pháp tu Duy Thức, ngài quán thấy “Tam giới duy tâm,
vạn pháp duy thức”.
Vì
nhận thấy giàu sang phú quý, danh vọng quyền tước… đều như bóng trong gương, như
trăng dưới nước, do thức tâm biến hiện, nên ngài tảo trừ hết vọng tưởng say mê về
hư vọng giả cảnh, trừ tánh “biến kế sở chấp” trên “y tha,” ngộ được tánh “viên thành
thật” nên được gọi là Phật Thích Ca thọ ký cho ngài sau sẽ thành Phật ở thế giới
Ta bà nầy.
Thân hiện tại của đức Di Lặc:
Cách đây 2500 năm (544, trước T.L.) khi Phật Thích Ca giáng sinh tại Ấn Độ,
thì ngài hiện thân vào nhà của Bà la môn tên là Ba Bà Lợi, ở về Nam thiên trúc,
nhằm ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Họ của ngài là A Dật Đa (không ai
hơn), tên Di Lặc (Từ thị). Tên họ nầy tiêu biểu lòng từ bi, hỷ xả vô lượng
vô biên của ngài. Từ bao nhiêu kiếp cho đến ngày thành Phật, ngài cũng vẫn
lấy hiệu là Di Lặc.
Kinh
Di Lặc thượng sanh có nói: Ngày rằm tháng 2 (tháng 4 ta) sau khi kinh nầy
12 năm, thì ngài nhập diệt tại chỗ bản sanh, rồi ngài sanh lên nội viện cõi trời
Đâu suất để chờ khi thế giới nầy giảm rồi tăng trở lại, trong khoảng kiếp tăng,
loài người hưởng thọ tám vạn tuổi, lúc bấy giờ ngài mới giáng sanh xuống cõi nầy,
rồi sau đến ngồi gốc cây Long Hoa tu thành ngôi Chánh giác. Ngài thành Phật
rồi hóa độ chúng sanh vô lượng đến sáu vạn năm mới nhập diệt
Hóa thân của đức Di Lặc:
Kinh chép “Bồ tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài”. Bồ tát lấy việc cứu độ làm lợi ích cho
chúng sanh làm bổn phận của mình. Ngài hiện ra nhiều thân để lẫn lộn với từng
lớp người đặng hóa độ chúng sanh. Trong các hóa thân của ngài, các Phật tử
ở Tàu cùng ở Việt Nam hiểu nhiều và thờ nhiều hơn hết là thân ngài Bố Đại Hòa Thượng.
Ngài hiện thân làm một vị hoà thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa bên Tàu.
Ngài thường quảy cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm làng, ai cho vật chi ngài
đều bỏ hết vào đãy mang đi. Ngài tụ họp các trẻ con lại, rồi phân phát cho
chúng bánh kẹo, giảng dạy Phật pháp trò chuyện rất vui thú, nên ngài đi đến đâu
thì các em tụ họp đông đảo đến đó.
Ngài
thường giảng kinh cho người nghèo, làm nhiều điều mầu nhiệm lạ thường. Lúc
bấy giờ thiên hạ không ai hiểu đặng ngài là người như thế nào cả, chỉ cùng nhau
kêu là vị Bố Đại Hòa Thượng, (ông hòa thượng mang đãy bằng vải). Đến đời Lương
niên hiệu Trịnh Minh năm thứ ba, tháng ba, ngài nhóm chúng lại tại chùa Nhạc Lâm,
rồi ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhơn
Thời nhơn giai bất thức.
(Di
Lặc thật là Di Lặc, hóa thân trăm ngàn ức, thường hiện trong đời, mà người đời chẳng
ai biết.) Nói xong kệ rồi ngài an nhiên nhập diệt. Kẻ tăng người tục
đều cùng nhau đến lễ bái cúng dường và dựng tượng của ngài thờ tại điện ở phía đông
chùa Nhạc Lâm bên Tàu.
Có
lẽ, căn cứ theo ứng thân nầy, nên trong các chùa ở Tàu hay Việt Nam thường thờ tượng
ngài Bố Đại Hòa Thượng với vẻ mặt hiền từ hân hoan, miệng cười vui vẻ, tượng trưng
đức hoan hỷ. Người béo bụng to, tay cầm cái đãy. Chung quanh có sáu
em bé đang leo trèo lên mình ngài là tượng trưng cho lục tặc (sáu giặc) khi đã bị
ngài hàng phục. Đây là một hóa thân trong trăm ngàn hóa thân của đức Di Lặc
Bồ tát.
Tương lai của đức Di Lặc:
Hiện nay đức Di Lặc là một vị Bổ xứ Bồ tát đang ở nội viện cung trời Đâu suất, đợi
đến khi thế giới nầy hết kiếp giảm thứ 9 rồi, đến kiếp tăng thứ 10 trong lúc nhơn
loại hưởng thọ được trên tám vạn tuổi, lúc bấy giờ ngài mới giáng sanh xuống cõi
nầy, trong nhà của một vị Bà la môn tên là Tu Phạm Ma, thân mẫu ngài tên Phạm Ma
Bạt Đề. Khi sanh ra ngài có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn, thông minh
quán chúng. Lớn lên ngài xuất gia tu hành, đến núi Kê Túc để nhận lãnh y bát
của đức Phật Thích Ca, do ngài Ma Ha Ca Diếp trao lại, rồi sau ngài đến ngồi dưới
gốc cây Long Hoa, dùng kim cang trí trừ sạch vi tế vô minh, chứng đạo vô thượng
Bồ đề.
Ngài
thuyết pháp tại giảng đường Hoa Lâm dưới cây Long Hoa. Hội thứ nhất độ được
chín mươi sáu ức người thành A La Hán, hội thứ hai độ chín mươi bốn ức người thành
A La Hán, hội thứ ba độ chín mươi hai ức người thành A La Hán. Thế nên gọi
là “Long Hoa Tam Hội”. Ngài thuyết pháp đến sáu vạn năm, hóa độ vô số chúng
sanh.
2.- PHẬT KHEN NGÀI DI LẶC BỒ TÁT
Khi ấy đức Thế Tôn khen ngài Di Lặc Bồ tát và dạy rằng:
-
Nầy Thiện nam, quí lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa
hỏi Như Lai những nghĩa lý cao siêu huyền diệu, khiến cho các vị Bồ tát đều được
con mắt trí huệ thanh khiết và tất cả chúng sanh đời sau đoạn tuyệt được sanh tử
luân hồi, tâm ngộ Thật tướng (1) và chứng được Vô sanh nhẫn (2). Các ông nên
chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy.
Khi ấy ngài Di Lặc Bồ tát và đại chúng đều vui mừng kính cẩn, vâng nghe lời
Phật khai thị.
LƯỢC GIẢI
Đoạn
nầy Phật khen ngài Di Lặc Bồ tát: Nhờ lời ông hỏi, để Phật chỉ giáo, nên khiến cho
các vị Bồ tát hiện tại, mắt trí huệ được sáng tỏ và chúng sanh đời sau cũng nhờ
câu hỏi nầy mà vĩnh viễn đoạn luân hồi.
(1)
Thật tướng:Tướng chơn thật không hư vọng, không bị thời gian thay đổi, không gian
chuyển dời, suốt xưa thấu nay, nó vẫn thường như; cũng một biệt danh của “Viên Giác.”
(2)
Vô sanh nhẫn:Chữ “Nhẫn” là an nhẫn, an trụ hay là chứng. Chữ “Vô sanh” là
không sanh. Nghĩa là: an trụ chỗ Ngã và Pháp không còn sanh khởi, tức là an
trụ “chơn tâm.”
3.- PHẬT DẠY: ÁI VÀ DỤC LÀ GỐC RỄ CỦA
SANH TỬ LUÂN HỒI
-
Nầy Thiện nam! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, đều do các món “ân ái và tham
dục” cho nên mới bị sanh tử luân hồi. Tất cả chúng sanh trong thế giới, tóm
lại có bốn loài (1)
1. Loài sanh trứng.
2. Loài sanh con
3. Loài sanh chỗ ẩm ướt.
4. Loài hóa sanh.
-
Các loại chúng sanh nầy, đều do “dâm dục” mà tạo thành tánh mạng của nó (nhứt thế
chúng sanh giai dĩ dâm dục nhi chánh tánh mạng).
-
Bởi thế, nên các ông phải biết: gốc rễ của sanh tử luân hồi là “Ái” và “Dục” vậy.
Vì có “dục” cho nên mới sanh ra ái luyến, do “ái luyến” nên mới sanh ra sanh tử
tử sanh, nối luôn không dứt.
LƯỢC GIẢI
Đoạn
nầy Phật chỉ ngay gốc rễ của sanh tử luân hồi là “ân ái và tham dục.” Chính
như thân mạng của các chúng sanh đây, cũng đều do dâm dục tạo thành.
Bởi
thân mạng đã do ái dục sanh, nên thân mạng còn thì ái dục còn, ái dục còn thì thân
mạng còn.
Trong
kinh Phật danh nói: “Có ái dục thì sanh, ái dục hết thì diệt; cho biết gốc rễ sanh
tử là tham ái, (hữu ái tắc sanh, ái tận tắc diệt, cố tri sanh tử, tham ái vi bổn).
Trong
kinh Niết bàn cũng nói: “Nhơn ái sanh ưu, nhơn ưu sanh bố, nhược ly tham ái, hà
ưu hà bố.” Nghĩa là: Vì tham ái nên mới sanh lo, nhơn lo mới sanh sợ, nếu
người lìa được ái dục rồi thì có lo gì và sợ gì?”
(1) Bốn loài:
1.- Noãn sanh: loài sanh trứng, như loài chim,
cá v.v…
2.- Thai sanh: loài sanh con như loài người và thú v.v…
3.- Thấp sanh: loài sanh chỗ ẩm ướt như lăng quăng, vi trùng v.v…
4.- Hóa sanh: như loài nhộng hóa bướm, hoặc như loài Địa ngục, ngạ quỉ và chư Thiên
v.v…
-
Nầy Thiện nam! Nhơn ái luyến nên sanh ra “dục,” do dục cho nên mới có thân mạng.
Bởi thế nên truy tầm đến cội gốc của nó, thì chúng sanh ái luyến thân mạng tức là
ái luyến “Dục.” Ái luyến dục là “nhơn,” mà ái luyến thân mạng là “quả”.
LƯỢC GIẢI
Ngài
Tôn Mật nói: “Do cảnh dục trần bên ngoài nó trêu ghẹo, làm cho tâm sanh ái luyến;
do tâm ái luyến, cho nên mới sanh ra tham dục; vì tham dục nên tạo nghiệp, do tạo
nghiệp cho nên mới thọ quả; khi thọ quả khổ rồi trở lại tạo nghiệp nữa, vì thế nên
sanh tử không cùng”.
4.- PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI: “CÓ MẤY LOẠI
CHÚNG SANH LUÂN HỒI?”
-
Nầy Thiện nam! Cảnh hồng trần có lắm điều xuôi ngược, nếu người khi gặp nghịch cảnh,
sanh tâm giận ghét, tạo ra các nghiệp dữ thì đọa vào địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh.
-
Nếu người biết nhàm cảnh dục, ưa tạo nghiệp lành, chán chê ác nghiệp, thì lại sanh
về cõi người và cõi trời dục giới.
-
Còn những người nhàm chê cảnh trần lao ô nhiễm ở cõi dục, tham ái cảnh Tứ thiền
và Bát định của hai cõi trên, như thế cũng còn tư dưỡng gốc tham ái, cho nên sanh
về hai cõi hữu vi là “trời Sắc giới” và “Vô sắc giới”.
-
Các loại chúng sanh trên đây, đều còn trong vòng sanh tử luân hồi, vì còn các tham
ái, nên chẳng thành Thánh đạo. Thế nên chúng sanh nào muốn thoát ly sanh tử
luân hồi thì trước phải đoạn trừ các tham dục và tâm ái luyến.
LƯỢC GIẢI
Đoạn
trên Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”. Đến đoạn
nầy Phật trả lời có ba loại chúng sanh.
1.- Ác nghiệp: - Như: Điạ Ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh (nghiệp ác bực thượng
thì đọa vào Địa ngục, nghiệp ác bực trung thì đọa vào Ngạ Quỉ, nghiệp ác bực hạ
thì đọa làm Súc sanh.)
2.- Thiện nghiệp: - Đây là nói về hữu lậu thiện. Như: Thiên, Nhơn và
Thần A tu la. (Nghiệp lành bực thượng thì sanh lên 6 cõi trời về Dục giới,
nghiệp lành bực trung thì sanh về cõi Người, nghiệp lành bực hạ thì sanh làm Thần
A tu la.)
3.- Bất động nghiệp: (Thiền định) – Như cõi Trời Tứ Thiền và Tứ Không.
Do tu Thiền định mà được sanh về bốn cõi Thiền ở Sắc Giới (1.- Ly, sanh hỷ lạc địa;
2.- Định, sanh hỷ lạc địa; 3.- Ly hỷ, diệu lạc địa; 4.- Xả niệm, thanh tịnh địa),
và bốn cõi Không, ở cõi Trời Vô sắc (1.- Không vô biên xứ thiên; 2.- Thức vô biên
xứ thiên; 3.- Vô sỡ hữu xứ thiên; 4.- Phi tưởng, phi phi tưởng xứ thiên).
Ba
loại chúng sanh nầy (ác nghiệp, thiện nghiệp và bất động nghiệp) tuy có cao thấp,
sanh hèn khác nhau, nhưng cũng đều còn ái và dục, chẳng qua thô hay tế đó thôi.
Ái dục còn tức là phiền não hữu lậu còn; vì phiền não hữu lậu còn nên phải còn sanh
tử luân hồi.
Tóm lại vì chúng sanh trong ba cõi (Dục
giới, Sắc giới và Vô sắc giới) còn ái nhiễn, nên đều còn luân hồi cả.
Kết thúc đoạn nầy, Phật dạy một câu:
“…Thế nên chúng sanh, muốn ra khỏi sanh
tử luân hồi, thì trước hết phải đoạn trừ ân ái và tham dục.” (Thị cố chúng
sanh, dục thoát sanh tử, miễn chư luân hồi, tiên đoạn tham dục, cập trừ ái khát).
Phật dạy pháp tu ra khỏi sanh tử luân
hồi, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi:
“Phải đoạn ân ái và tham dục”.
Rất giản dị và rõ ràng vô cùng.
Thật là “khuôn vàng thước ngọc”, đáng làm qui cũ cho muôn đời! Hành giả chỉ
thật hành đúng như lời Phật dạy đây, đó là Tu, Tu là đó rồi.
Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy
rằng:
“…Dâm Tâm bất trừ,
Trần bất khả xuất…”
Nghĩa là: Tâm nghĩ ngợi đấn việc
dâm dục, nếu không trừ, thì cảnh hồng trần nầy không biết bao giờ ra khỏi.
5.- BỒ TÁT HIỆN THÂN, KHÔNG PHẢI DO ÁI
DỤC MÀ DO LÒNG ĐẠI BI VÀ NGUYỆN LỰC
-
Nầy Thiện nam! Các vị Bồ tát hóa hiện thân hình ở trong thế gian, không phải vì
ái dục nhiễm ô như chúng sanh, mà gốc do lòng Từ bi và đại nguyện cứu thế, nên đã
hiện ra thân tham dục để vào sanh tử hóa độ chúng sanh, khiến cho chúng sanh xả
bỏ các ái dục.
LƯỢC GIẢI
Phật sợ có người hiểu lầm: Bồ tát cũng có phụ mẫu, thê tử, v.v… tất nhiên
phải có ái dục nhiễm ô và cũng thật sanh tử như chúng sanh. Cho nên đoạn nầy
Phật giải thích: Bồ tát do lòng từ bi và đại nguyện cứu thế, nên hiện ra thân tham
dục, để vào sanh tử, đặng hóa độ chúng sanh, chớ không phải thật có tham dục và
sanh tử.
6.- PHẬT DẠY: CÓ NĂM CHỦNG TÁNH
-
Nầy Thiện nam! Nếu tất cả chúng sanh đời sau bỏ được các tham dục, trừ tâm thương
ghét, dứt hẳn sanh tử luân hồi, nơi tâm được thanh tịnh, cầu nhập cảnh giới Viên
Giác của Như Lai, thì sẽ được ngộ nhập.
-
Nầy Thiện nam! Tất cả chúng sanh gốc từ Vô minh tham dục, nên sanh ra năm món tánh
sai khác. Năm món tánh nầy căn cứ theo việc đoạn trừ hai chướng có cạn và
sâu mà phân định.
-
Thế nào là hai chướng?
1. Lý chướng: làm chướng ngại chánh tri kiến.
2. Sự chướng: làm tiếp nối sanh tử.
-
Nếu đối với hai món chướng nầy mà hoàn toàn chưa đoạn thì gọi là chúng sanh.
LƯỢC GIẢI
Đoạn
trên ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy hạng người tu theo đạo Bồ đề của Phật?”.
Đến đoạn nầy Phật trả lời có năm hạng. Song năm hạng nầy là căn cứ theo việc
đoạn trừ hai chướng có cạn và sâu của hành giả mà phân định.
Lý chướng:Chướng về Lý, cũng tên là “Sở tri chướng”, do chấp pháp mà sanh.
Vì chấp pháp nên làm chướng ngại “Chơn như lý tánh” không hiện bày; vì thế nên mới
“Lý chướng là chướng ngại chánh tri kiến của Phật”.
Sư chướng:Chướng về Sự, cũng gọi là “phiền não chướng”, do chấp ngã sanh.
Do các phiền não nên tạo ra các nghiệp, vì tạo nghiệp nên mới thọ luân hồi.
Vì thế Phật nói: “Sự chướng làm tiếp nối sanh tử luân hồi”.
Bởi
chấp ngã nên khởi ra các phiền não làm chướng ngại Bồ đề. Bởi chấp ngã nên
sanh ra Sở tri chướng, làm chướng Niết bàn tịch mịch của Phật. Vì những người
chưa phát tâm tu hành, đối với hai món chướng nầy chưa đoạn được món nào, cho nên
chỉ kêu là “Chúng sanh” mà không liệt vào trong năm chủng tánh.
-
Nầy Thiện nam! Thế nào là năm chủng tánh?
1.- Thinh văn chủng tánh.
2.- Duyên giác chủng tánh.
3.- Bồ tát chủng tánh.
4.- Bất định chủng tánh.
5.- Ngoại đạo chủng tánh.
1.-THINH VĂN, 2.- DUYÊN GIÁC CHỦNG
TÁNH
-
Nếu chúng sanh nào đoạn tuyệt tham dục, trừ được sự chướng (ngã chấp) nhưng lý chướng
(pháp chấp) chưa đoạn thì chỉ chứng đặng quả Thinh văn và Duyên giác, chớ chưa được
an trụ cảnh giới Bồ tát.
LƯỢC GIẢI
Đoạn
nầy nói về chủng tánh Thinh văn và Duyên giác, chung gọi là “Nhị thừa chủng tánh”.
Đành
rằng hai quả vị nầy đồng bỏ hẳn lòng tham dục đồng phá được ngã chấp, trừ sự chướng
(pháp chấp) nhưng pháp tu của hai bên khác nhau:
-
Một bên tu pháp Tứ đế đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là “Thinh văn chủng
tánh”.
-
Một bên tu pháp Thập nhị nhơn duyên đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là: “Duyên
giác chủng tánh”.
Ngài Tôn Mật giải rằng: “Biết được khổ
sanh tử, dứt trừ tâm leo chuyền, thì gọi là trừ “Sự chướng”, thật ra chưa có thể
trừ được ba món Tế” (Ba món Tế, xem torng quyển Đại thừa khởi tín luận).
3.-BỒ TÁT CHỦNG TÁNH
-
Nầy Thiện nam! Nếu chúng sanh đời sau, muốn vào biển Đại Viên Giác của Như Lai,
thì trước phải phát nguyện siêng năng đoạn trừ hai món chướng. Đến khi hai
món chướng đã nép phục, thì ngộ vào cảnh giới Bồ tát.
-
Nếu như khi hai món chướng (ngã chấp, pháp chấp) đã hoành toàn diệt, thì vào được
cảnh giới Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai, viên mãn Bồ đề và đại Niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Đoạn
nầy nói về Bồ tát chủng tánh. Có chia làm hai thời kỳ:
1. - Thời kỳ hai chướng mới nép phục.
2. - Thời kỳ đoạn tuyệt được hai chướng.
Hành
giả từ khi còn địa vị phàm phu, đang bị hai chưóng (Phiền não chướng và Sở tri chướng)
hoành hành, rồi trải qua giai đoạn giằng co, cho đến lúc hai chướng bị nép phục,
như thế mới vừa lên địa vị Bồ tát. Khi lên địa vị Bồ tát, tiếp tục đoạn chướng,
đến lúc đoạn tuyệt được Phiền não chướng (ngã chấp) thì đặng Bồ đề (Trí thức), đoạn
tuyệt được Sở tri chướng (pháp chấp) thì đặng đại Niết bàn (đoạn đức). Hai
chướng bị đoạn vĩnh viễn rồi thì đặng vào quả “Phật”.
Tại
sao lập Bồ tát tánh mà không lập Như Lai tánh? Vì Bồ tát tu hằnh đến lúc hoàn
toàn rốt ráo, thì chứng quả vị Phật, nên không lập thêm Như Lai tánh.
4.-BẤT ĐỊNH CHỦNG TÁNH
-
Nầy Thiện nam! Có loại chúng sanh có thể chứng được Viên Giác. Song, nếu chúng
gặp Thiện tri thức là Thinh văn hóa độ, thì chúng thành Tiểu thừa; còn gặp Thiện
tri thức là Bồ tát hóa độ thì chúng thành Đại thừa. Nếu gặp Như Lai dạy tu
đạo Vô thượng Bồ đề, thì chúng thành Phật thừa.
LƯỢC GIẢI
Đoạn
nầu nói về “Bất định chủng tánh”. Nghĩa là chúng sanh nầy căn tánh không nhứt
định Đại thừa hay Tiểu thừa. Nếu gặp Thiện tri thức thuộc về Đại thừa giáo
hóa, thì chúng thành Đại thừa; còn gặp Thiện tri thức thuộc về Tiểu thừa giáo hóa
thì chúng thành Tiểu thừa.
5.-NGOẠI ĐẠO CHỦNG TÁNH
-
Nầy Thiện nam! Có những chúng sanh đi tầm Thiện tri thức chỉ dạy đường lối tu hành,
nhưng lại gặp Ngoại đạo tà sư dạy bảo, nên chúng nó sanh tà kiến, hiểu ngộ không
chơn chánh, thế gọi là “Ngoại đạo chủng tánh”. Đây không phải lỗi tại chúng
sanh đó, mà lỗi tại tà sư.
-
Tóm lại, chúng sanh tu Bồ đề có năm chủng tánh sai khác như ta vừa kể xong.
LƯỢC GIẢI
Đoạn
nầy nói về “Ngoại đạo chủng tánh”. Tuy chúng sanh nầy vẫn có tâm tu hành nhưng
không gặp “Thiện tri thức” giáo hóa, lại gặp tà sư chỉ dạy, nên thành ngoại đạo.
Vì
sự hiểu biết của chúng tà ngụy, không phải chánh đạo nên gọi là “ngoại đạo”.
Ngoại đạo chủng tánh ở kinh khác gọi là “Xiễn đề chủng tánh”, nghĩa là “đoạn giống
Phật”. Vì trong bốn chủng tánh trên, tuy có Đại thừa và Tiểu thừa khác nhau,
nhưng cũng đều “Chánh ngộ”, duy có Ngoại đạo chủng tánh, sanh tà kiến, đoạn diệt
chánh kiến, trái ngược với chánh nhơn thành Phật cho nên gọi là “chúng Xiễn đề”
(đoạn giống Phật).
7.- BỒ TÁT NHẬP THẾ ĐỘ SANH THỊ HIỆN
CÁC HÌNH TƯỚNG VÀ CÁC CẢNH THUẬN NGHỊCH
-
Nầy Thiện nam! Các vị Bồ tát đều y bổn nguyện độ sanh của mình từ vô thỉ và do lòng
Đại bi thanh tịnh (1) thúc đẩy nên nhập thế độ sanh. Bồ tát dùng phương tiện
thị hiện ra nhiều hình tướng, khi thì hiện cảnh thuận, khi thì hiện cảnh nghịch,
có lúc lại lân la ở chung với chúng sanh và đồng làm các nghề nghiệp như chúng sanh
(đồng sự nhiếp) để tiện bề hóa độ, khiến cho chúng sanh được thành Phật.
LƯỢC GIẢI
Đoạn
nầy Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi Phật: “Khi Bồ tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương
tiện gì để giáo hóa chúng sanh?”
Đại
ý đoạn nầy Phật trả lời: Bồ tát do bản nguyện độ sanh từ vô thỉ (Bồ tát dĩ lợi sanh
vi bổn hoài), và lòng Đại bi thanh tịnh thúc giục, nên mới nhập thế độ sanh; không
đồng như chúng sanh do ái dục làm nhiễm ô và bị nghiệp lực lôi cuốn mà nhập thế.
Bồ
tát dùng phương tiện thị hiện ra nhiều hình tướng để độ sanh. Như Ngài Quan
Âm hiện 32 ứng thân, Đức Di Lặc Bồ tát hiện thân Bố Đại Hòa Thượng, hoặc có vị hiện
Thần Kin Cang, hiện thân Tiêu Diện, Thập Điện Minh Vương, Ngưu đầu, Mã diện v.v…
có lúc hiện “Từ” có lúc hiện “Oai”, nên có câu:
Kim Cang lộ mục sở dĩ hàng phục tứ ma
Bồ tát đê mi do thị ai từ lục đạo.
Nghĩa
là: Thần Kim Cang trợn mắt là để hàng phục bốn ma. Bồ tát xủ mày là vì thương
chúng sanh trong 6 đạo. Bồ tát khi hiện cảnh thuận: Giảng dạy pháp lành khuyên
người tu học v.v… có lúc lại hiện cảnh nghịch: như hiện chảo dầu sôi, để độ Ông
Nan Đà Tôn giả, hoặc dùng gông xiềng đánh đập v.v… để cho người biết thức tỉnh hồi
tâm. Cổ nhơn nói: “Người không gặp tai nạn, thì chẳng biết hồi tâm hướng thiện”.
(Nhơn vô hoạn họa, bất hối đầu). Hay như Ngài Thiện Tài Đồng Tử đi tham học
với Bà Tu Mật Nữ v.v…
Bồ
tát có khi thị hiện lân la ở chung cùng với chúng sanh và đồng làm các nghề nghiệp
như chúng sanh (Như Ngài Lục Tổ khi ở chung với bọn thợ săn v.v…) để lần hồi dẫn
dắt chúng sanh trở về với chánh đạo.
Tóm
lại, các Bồ tát nhập thế độ sanh, đều do tâm Đại bi làm chủ động, lấy Đại nguyện
làm căn bản, dùng phương tiện có nhiều môn, tuy không nhứt định nhưng đại khái không
ngoài Thuận và Nghịch. Hoặc dùng lời giảng dạy (khẩu giáo hóa) hoặc hiện thân
hóa độ (thân giáo hóa), hoặc dụng đồng sự nhiếp, chung qui một mục đích là khiến
cho chúng sanh được giải thoát và thành Phật.
(1) Đại
bi thanh tịnh. - Bồ tát do lòng từ bi rộng
lớn thưong xót chúng sanh mà hiện thân hóa đạo, không phải vì danh và lợi v.v… cho
nên nói là “Thanh tịnh.”
8.- CHỈ NGUYỆN THÀNH PHẬT, KHÔNG Ở NHỊ
THỪA VÀ CHỚ GẶP NGOẠI ĐẠO
-
Nầy Thiện nam! Nếu các chúng sanh đời sau phát nguyện thanh tịnh của Bồ tát, khởi
tâm tăng tấn cầu nhập Viên Giác, thì phải phát nguyện như vầy:
-
Con nguyện ngày nay được gặp Thiện tri thức dạy con tu hành để nhập Viên Giác của
Phật, chớ gặp tà sư ngoại đạo và Nhị thừa.
-
Con y theo bản nguyện tu hành lần hồi dứt trừ các chướng. Khi các chướng hết,
nguyện được viên mãn, thì con sẽ được vào thành lớn Viên Giác, trang nghiêm tốt
đẹp và lên cung điện thanh tịnh giải thoát của Như Lai.
LƯỢC GIẢI
Đại
ý đoạn nầy Phật dạy các chúng sanh đời sau, muốn cầu Viên Giác thì phải phát lời
thệ nguyện: “Con nguyện chớ gặp tà sư ngoại đạo và Tiểu thừa chỉ lo tu ích kỷ tiêu
cực không chịu Hoằng pháp lợi sanh. Con nguyện gặp Thiện tri thức Đại thừa,
tu lợi tha tích cực, dạy bảo con tu hành được thành quả Phật”.
Ngài
Như Sơn nói: “Lý, tuy đốn ngộ, nhưng về phần sự tướng thì phải lần lần diệt trừ”
(lý tuy đốn ngộ, sự nải tiệm trừ).
Khi
các chướng hết rồi thì đi, đứng, nằm, ngồi trong tất cả thời và tất cả chỗ đều được
giải thoát. Đó là cung điện giải thoát thanh tịnh và thành Viên Giác trang
nghiêm của Như Lai.
9.- PHẬT NÓI BÀI KỆ TÓM LẠI CÁC NGHĨA
TRÊN
Khi đó Đức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa
trên nên nói bài kệ rằng:
Di Lặc! Ông nên biết:
Tất cả các chúng sanh
Đều do tham dục vậy,
Nên đọa vào sanh tử,
Chẳng đặng đại giải thoát.
Nếu người đoạn thương ghét,
Cùng với tham, sân, si,
Không cần tu gì khác,
Cũng đều được thành Phật.
Cầu nguyện gặp Minh sư,
Khai ngộ được chơn chánh.
Y theo nguyện Bồ tát,
Trừ tuyệt hai món chưóng,
Được vào Đại Niết Bàn,
Các Bồ tát mười phương,
Đều bởi lòng Đại bi,
Phát nguyện vào sanh tử,
Tùy loại độ chúng sanh.
Người tu hành hiện tại
Và chúng sanh đời sau,
Phải đoạn trừ ái hoặc,
Mới đặng vào Viên Giác.
LƯỢC GIẢI
Bài
kệ nầy Phật gọi Ngài Di Lặc Bồ tát mà dạy, đại ý như vầy: Tất cả chúng sanh vì tham
dục nên bị sanh tử luân hồi, không được giải thoát. Nếu người đoạn tuyệt được
Tham, Sân, Si, v.v… thì được thành quả Phật. Thế nên người tu hành phải cầu
Minh sư khai ngộ, rồi y theo hạnh nguyện của Bồ tát mà đoạn trừ hai chướng và cầu
chứng quả Niết Bàn của Phật.
Các
vị Bồ tát ở mười phương, đều do lòng Đại bi thanh tịnh làm chủ động và chí nguyện
lợi tha thúc đẩy, nên không nỡ yên ở chỗ thanh tịnh tu giải thoát một mình, thích
thú nơi cảnh tịch tịnh lo phần ích kỷ như hạng Tiểu thừa; mà Bồ tát thệ nguyện nhập
thế độ sanh, lẫn lộn với trần lao để tùy duyên hóa độ. Không sợ ô nhiễm, chẳng
kể gian lao, không từ khó nhọc.
Như
Ngài Địa Tạng Bồ tát nguyện rằng:
“Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề
Địa ngục vị không thệ bất thành Phật.”
Tổ
A Nan cũng thệ rằng:
“…Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhứt chúng sanh vị thành Phật
Chung bất ư khử thủ Nê...”