BÀI THỨ BA
I. A-Nan cầu Phật dạy phương-pháp
tu-hành lần thứ hai.
Ông A-Nan đã bảy lần chỉ tâm đều không trúng, vì ông chấp vọng tưởng làm tâm, nên
bị Phật bác cả. Lần thứ hai ông đứng dậy chắp tay kính lạy, cầu
Phật chỉ dạy phương-pháp tu hành để thoát ly sanh tử luân hồi.
A-Nan thưa rằng:
- Bạch Thế-Tôn! Con là em Phật, tuy
đã xuất-gia, mà vẫn còn ỷ-lại lòng thương yêu của Phật, chỉ lo học rộng nghe nhiều,
không chuyên tu-niệm, nên không chứng được đạo-quả, chẳng hàng-phục nỗi tà-chú của
ngoại-đạo Ta-tỳ-ca-la; trái lại, còn bị Ma-đăng-già bắt vào phòng dâm… phải nhờ
Phật cứu-độ. Vậy cúi xin Phật từ-bi chỉ dạy cho con phương-pháp
tu-hành, để pháp trư ác-kiến và chứng thành đạo-quả.
Thưa thỉnh xong, A-Nan và đại-chúng đều kính-cẩn trông chờ
lời Phật chỉ dạy.
II. Phật gạn hỏi lại tâm lần thứ
hai.
Lúc bấy giờ Phật gạn hỏi lại cái “tâm” lần thứ hai, và bảo ông A-Nan phải phân-biệt
rành-rõ cái nào là chơn-tâm và cái nào là vọng-tâm.
Phật dạy:
- Ông nay muốn đặng đạo vô-thượng Bồ-đề, thì điều cần
nhứt là phải hiểu rõ hai món căn-bản:
- 1 căn-bản của sanh-tử luân-hồi là vọng-tâm.
- 1 căn-bản của Bồ-đề Niết-bàn là chơn-tâm.
- Nếu ông nhận lầm căn-bản của sanh-tử (vọng-tâm) làm
nhơn tu-hành, thì không bao giờ giải-thoát được. Cũng như người
nhận giặc làm con, thì chỉ thêm bị phá gia-sản của mình mà thôi.
Và cũng như người nấu cát làm cơm, dầu trải bao nhiêu năm cũng chẳng thành cơm được.
- Vậy nay ông muốn biết đường lối tu-hành để ra khỏi
sanh-tử luân-hồi, thì ông hãy nghe tôi hỏi đây:
Phật liền đưa bàn tay, co năm ngón, hỏi ông A-Nan rằng:
- Ông có thấy không?
A-Nan đáp:
- Bạch Thế-Tôn, thấy.
Phật hỏi:
- Ông thấy cái gì?
A-Nan đáp:
- Con thấy Phật đưa bàn tay co năm ngón lại.
Phật hỏi:
- Ông lấy cái gì để thấy và lấy
cái gì làm tâm?
III. A-Nan chẤp cái “suy-nghĩ phân-biỆt”
làm tâm.
A-Nan thưa:
- Con lấy “mắt” để thấy và cái “biết suy-nghĩ, phân-biệt”
làm tâm.
Phật quở:
- Dốt lắm, A-Nan! Cái đó không phải
là tâm của ông.
LƯỢC GIẢI
Chúng ta nên lưu-ý: Thông-thường ai cũng đều cho cái “suy-nghĩ,
phân-biệt” là tâm của mình, mà Phật lại nói “không phải tâm”.
Vậy chúng ta cần phải chín-chắn suy-xét chỗ đó.
A-Nan hoảng-hốt, đứng dậy thưa Phật:
- Bạch Thế-Tôn, cái “suy-nghĩ, phân-biệt” này, nếu không
phải là tâm của con, thì gọi nó là cái gì?
Phật dạy:
- Nó là “vọng-tưởng” (vọng-tâm).
Bởi các ông từ hồi nào đến giờ, lầm nhận “vọng-tưởng” làm “chơn-tâm”, cho nên nhiều
kiếp trầm-luân. Như người nhận giặc làm con, nên bị giặc phá
hại.
A-Nan thưa:
- Bạch Thế-Tôn, con vì thương Phật nên mới xuất-gia,
thì con chỉ dùng cái tâm này mà thương Phật. Con phụng-thờ các
đức Phật trong mười phương và làm tất cả các điều công-đức, cũng dùng cái tâm này.
Dầu cho con có làm các điều tội-lỗi, hủy-báng Phật pháp, đọa và địa ngục
đi nữa, thì con cũng dùng cái tâm này. Ngày hôm nay Phật nói
“nó” không phải là tâm của con, như thế thành ra con không có tâm; nếu không có
tâm, thì con đồng như cây, đá rồi! cúi xin đức Thế-Tôn từ-bi
chỉ-giáo.
Phật dạy:
- Này A-Nan, nếu ông chấp cái “suy-nghĩ, phân-biệt”
là tâm của ông, thì khi rời cảnh vật hiện-tiền, cái tâm “hiểu biết, phân-biệt” ấy,
cũng vẫn còn, thế mới phải là tâm của ông. Nếu rời cảnh-vật hiện-tiền,
mà tâm hiểu biết phân-biệt ấy mất đi, thì không phải là chơn-tâm của ông rồi.
- Dầu cho ông diệt hết năm cảm-giác bên ngoài là thấy,
nghe, hay, biết, chỉ còn lưu lại cái “thầm thầm phân-biệt” bên trong (thức thứ Sáu)
thì đó cũng là cái vọng-tưởng phân-biệt (ý-thức thứ Sáu) bóng-dáng pháp-trần, không
phải là chơn-tâm của ông.
- Này A-Nan, tôi không buộc ông phải chấp cái “suy-nghĩ
phân-biệt” đó là không phải tâm ông; tôi chỉ bảo ông nên chín-chắn suy xét:
Nếu rời cảnh vật hiện-tiền, mà cái “suy-nghĩ phân-biệt” này vẫn còn, thì
mới phải là chơn-tâm của ông.
- Còn nếu rời cảnh vật hiện-tiền, mà cái “suy-nghĩ phân-biệt”
này cũng mất luôn đi, thì rõ-ràng là cái “vọng-tưởng phân-biệt” (vọng tâm) bóng-dáng
của sáu trần, chớ không phải là “chơn-tâm thường trụ” của ông vậy.
- Nếu ông nhận cái “hư-vọng phân-biệt sanh-diệt” (vọng-tưởng)
này làm tâm của ông, thì khi cảnh-vật hiện-tiền qua rồi, tâm ấy cũng theo cảnh vật
mà diệt đi. Lúc bấy giờ thành ra ông không tâm rồi.
Nếu không có tâm, thì ông lấy gì để tu hành và thành đạo chứng quả.
- Ông phải biết rằng: trong thế-gian tất cả người tu
hành, không được thành đạo, đều do chấp lầm cái “vọng-tưởng sanh-diệt” này làm chân
thật.
- Chính ông ngày nay cũng thế,
nên tuy học nhiều mà không được quả Thánh.
IV. A-Nan cẦu PhẬt chỈ dẠy phương-pháp
tu-hành lẦn thỨ ba.
A-Nan cùng Ðại-chúng, nghe Phật nói như vậy, đều ngẩn-ngơ và im-lặng.
Lúc bấy giờ ông A-Nan cúi đầu lạy Phật, quỳ gối chắp tay, vừa khóc-lóc vừa bạch
Phật rằng:
- Con từ khi xuất-gia theo Phật đến nay, vì ỷ-lại là
em của Phật, tin chắc sẽ nhờ oai-thần Phật ban cho đạo-quả, chẳng cần tu hành cực
nhọc; không ngờ ai tu nấy chứng, không thể thay thế cho nhau được.
- Hôm nay con mất “bản-tâm” đi rồi, thân tuy xuất-gia
mà tâm chẳng vào đạo, chẳng khác nào đứa cùng-tử bỏ cha trốn đi.
- Nay con mới biết học nhiều mà không tu, cũng như người
không học, và cũng như người nói đến đủ các thức ăn, rốt cuộc trong bụng vẫn đói.
- Bạch Thế-Tôn, chúng con vì
hai chướng phiền-não và sở-tri ràng buộc, nên không ngộ được chơn-tâm.
Cúi xin đức Thế-Tôn thương xót kẻ bần-cùng, chỉ dạy cho con phương-pháp tu-hành,
để phát-minh được tâm tánh.
V. PhẬt chỈ tâm lẦn thỨ nhẤt.
Khi ấy Phật kêu A-Nan, dạy rằng:
- Vừa rồi ông nói “thấy năm ngón tay của ta co nắm lại”.
Vậy vì sao có nắm tay? và nhờ cái gì mà có cái thấy?
A-Nan thưa:
- Bạch Thế-Tôn, nhơn bàn tay của Phật co lại năm ngón,
nên mới có nắm tay và nhờ con mắt cho nên mới có cái thấy.
Phật hỏi:
- Vậy thì “không bàn tay chẳng có nắm tay, cũng như
không con mắt thời chẳng có cái thấy”; so-sánh như thế có đúng không?
A-Nan thưa:
- Bạch Thế-Tôn, đúng.
Phật dạy:
- Không đúng hẳn! Không bàn tay thì
không có nắm tay là phải, còn không con mắt, chẳng phải cái “thấy” không có.
- Ông nên ra ngoài đường hỏi thử những người mù mắt:
“Các ngươi có thấy cái gì không?”, thì họ đều trả lời với ông rằng:
“Chỉ thấy tối đen”. Như thế thì rõ-ràng: người mù không con mắt,
mà cái “thấy” cũng vẫn còn.
- Ðây là cái bằng-chứng: Mặc dù con
mắt không có, và trần-cảnh đối trước có tối và sáng khác nhau, nhưng cái thấy lúc
nào cũng có (nói cái thấy là đại-diện cho các cảm-giác).
A-Nan thưa:
- Người mù thấy tối, thì sao
gọi là thấy được?
VI. PhẬt chỈ “cái thẤy” là tâm, không phẢi
con mẮt.
Phật hỏi A-Nan:
- Người sáng mắt ở trong nhà tối thấy tối, cùng với
người mù mắt thấy tối, vậy hai cái tối đó có khác nhau không?
A-Nan thưa:
- Bạch Thế-Tôn! Không khác.
Phật hỏi:
- Người ở trong nhà tối thấy tối, nếu có người đem đèn
vào, họ thấy được các vật, vậy cái đèn thấy hay con mắt thấy?
A-Nan thưa:
- Mắt thấy chứ không phải đèn thấy.
Phật dạy:
- Cũng thế, người mù mắt khi lột mây rồi, thấy được
các cảnh-vật, đó là tâm thấy chớ không phải mắt thấy.
Phật dạy tiếp:
- Cái đèn chỉ làm cho sáng các vật, còn cái thấy là
con mắt (dụ cho tâm) chớ không phải đèn (dụ con mắt). Lên một
từng nữa: con mắt chỉ làm cho tỏ rõ các vật, còn cái thấy là tâm, chớ không phải
con mắt (đây là lần thứ nhứt Phật chỉ tâm).
A-Nan và đại-chúng nghe Phật giảng dạy như thế rồi, đều im-lặng, nhưng trong tâm
thật chưa hiểu, nên đều kính-cẩn chắp tay, để chờ Phật chỉ dạy thêm.
LƯỢC GIẢI
Trong đoạn này, xin nói thêm tỷ-dụ này cho dễ hiểu: Con mắt của
người, cũng như bóng đèn điện, còn cái thấy của người cũng như điện. Khi
dây đứt (dụ dây thần-kinh đứt) bóng hư (dụ mắt mù) thì đèn không cháy, chớ không
phải điện mất (không cái thấy). Ðến khi thay bóng mới nối dây lại,
thì điện cháy trở lại; không phải do bóng hay do dây mới có điện.
Cái thấy của người cũng thế: khi mắt bị mây che thì chỉ thấy
tối, chớ không phải cái “thấy” mất, đến khi lột mây rồi, thì cái “thấy” hiện ra,
không phải do con mắt mới có cái thấy. Ðoạn này Phật chỉ rõ “cái
thấy” là tâm.
VII. PhẬt chỈ tâm lẦn thỨ hai.
Khi đó Phật đưa bàn tay lên, năm ngón co lại rồi mở ra và hỏi ông A-Nan:
- Ông có thấy cái gì không?
A-Nan thưa:
- Thấy Phật đưa tay lên co vào, rồi mở ra.
Phật hỏi:
- Tự cái tay của ta co mở, hay “cái thấy” của ông nó
co mở?
A-Nan thưa:
- Tự tay Phật co mở, chớ “cái thấy” của con không co
mở.
Phật nói:
- Phải lắm!
Phật lại phóng một đạo hào-quang trên vai phía mặt của A-Nan; A-Nan liền xoay đầu
ngó về phía bên mặt. Phật lại phóng hào-quang trên vai phía trái
của A-Nan; A-Nan xoay đầu ngó qua phía trái.
Phật hỏi:
- Cái đầu của ông hôm nay tại sao xoay qua lắc lại như
vậy?
A-Nan thưa:
- Vì Phật phóng hào-quang trên hai vai của con, nên
con xoay qua lắc lại để xem.
Phật hỏi:
- Vậy cái đầu của ông lắc, hay cái thấy của ông lắc?
A-Nan thưa:
- Tự cái đầu con xoay qua lắc lại, chớ cái thấy của
con không có xoay lắc.
Phật hỏi:
- Cái nào động, cái nào tịnh?
A-Nan thưa:
- Cái đầu của con có động và tịnh (dừng), chớ cái thấy
của con không có động tịnh.
Phật nói:
- Phải!
Phật dạy tiếp:
- Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có sanh, có
diệt, thì cái đó là vọng, thuộc về “khách”, không phải ông. Còn
cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, thì cái đó là “chơn”, thuộc về
“chủ”, chính là ông. Như thế, chơn và vọng rất rõ ràng, ông còn
chưa hiểu hay sao!
- Tại sao từ hồi nào tới giờ, các ông cứ nhận cái vọng-thân
tứ-đại giả-hợp này, cho là thật “tâm” mình; cảnh vật giả-tạm, cho là thật “cảnh”
của mình, mà lại bỏ cái chơn-tâm thường còn bất sanh bất diệt của mình sẵn có kia
đi? Bởi thế nên các ông phải nhiều kiếp sanh tử luân hồi, thật
là rât oan-uổng!
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ cái “thấy” không co mở, và không sanh,
diệt, động, tịnh, đó là chơn-tâm lưu-lộ.
VIII. A-Nan cẦu PhẬt chỈ dẠy Ở nơi thân nay cái nào “chơn” và cái nào “vỌng”.
Khi ấy A-Nan và đại-chúng được nghe Phật tạm chỉ “cái thấy
không động tịnh co mở là Tâm”, nên tất cả đều hớn-hở, vui mừng, và nghĩ rằng: Từ
vô-thỉ đến nay, tự mình làm mất bản-tâm, nhận cái vọng tưởng phân-biệt theo bóng-dáng
của trần-cảnh làm Tâm, ngày hôm nay mới ngộ được Tâm mình, nên hết sức vui mừng.
Cũng như đứa con nhỏ khát sữa đã lâu, nay được gặp bà từ-mẫu, nên ông và
đại-chúng cầu Phật chỉ rõ ở nơi thân-tâm hiện-tiền đây, cái nào chơn-thật không
sanh diệt và cái nào hư-vọng có sanh diệt.
IX. Vua Ba-Tư-NẶc đúng dẬy hỎi PhẬt.
Khi ấy vua Ba-tư-nặc đứng dậy thưa Phật:
- Bạch Thế-Tôn, lúc trước chưa thọ-giáo với Phật, con
nghe phái ngoại-đạo Ca-chiên-diên và Tỳ-la-chi-tử đều nói: “Thân này sau khi chết
rồi mất hẳn, gọi là Niết-bàn”.
- Hôm nay con tuy được Phật chỉ
dạy, nhưng vẫn còn hồ-nghi: làm sao biết rõ và chứng chắc cái tâm này không sanh
diệt. Xin Phật từ-bi chỉ dạy cho chúng con.
X. PhẬt chỈ tâm lẦn thỨ ba.
Phật hỏi:
- Ðại-vương! Cái thân của ông hiện-tại
đây, nó bền chắc như ngọc kim-cương, còn mãi không hư-hoại, hay là phải hoại diệt?
Vua đáp:
- Bạch Thế-Tôn, thân con ngày nay đây, rốt cuộc rồi
cũng bị hoại diệt.
Phật hỏi:
- Ông chưa chết, làm sao biết nó sẽ bị hoại diệt?
Vua đáp:
- Bạch Thế-Tôn, cái thân vô-thường của con đây, tuy
chưa chết, chớ hiện tiền nó đã tàn-tạ dần! Ngày qua, rồi lại
ngày qua! mỗi niệm qua, qua từ sát-na (tíc-tắc) không dừng!... Cũng như củi
đốt thành tro, cháy dần cho đến lúc tiêu-tàn. Vì thế nên con
biết, thân này nhứt định sẽ tiêu diệt.
Phật nói:
- Phải!
Phật lại nói:
- Ðại-vương! Thân thể ông đâu phải
tiêu diệt liền bây giờ?
Vua đáp:
- Bạch Thế-Tôn, ngày qua tháng lại, hết hạ đến đông,
nó thầm thầm già chết, cho đến ngày nay, đầu bạc răng rụng, chan lỏng gối dùn, mắt
lờ tai lảng, già nua đến thế này, mà con thật không hay không biết!
- Bạch Thế-Tôn, khi con hai mươi tuổi, tuy nói rằng
tuổi trẻ, thật ra nhan sắc đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba tuổi
lại già hơn khi hai mươi tuổi. Cho đến ngày nay, sáu mươi hai
tuổi, lại già hơn khi năm mươi tuổi.
- Nó âm-thầm già chết, lấy trong khoảng thời-gian mười
năm mà nói như vậy. Nếu chín-chắn suy-nghĩ, thì cái già, chết
này, không phải hạn-định trong khoảng mười năm hay hai mươi năm, mà thật ra, nó
già từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ. Nếu suy-nghĩ kỹ
hơn nữa, thì nó già, chết từng phút từng giây và từng sát-na (tíc-tắc)!
Năm nay già hơn năm, tháng này già hơn tháng trước, ngày hôm nay già hơn
ngày hôm qua, giờ này già hơn giờ trước, phút này già hơn phút trước, cho đến sát-na
này cũng già hơn sát-na trước. Thế nên con biết, thân này rốt cuộc rồi cũng
phải tiêu diệt.
LƯỢC GIẢI
Cũng như cái đồng hồ, vì có chạy từng giây, cho nên mới qua từng phút. Bởi
có đi từng phút, nên mới chỉ đến từng giờ, và ngày v.v… Thân
này già chết cũng thế.
Phật hỏi:
- Ðại-vương! Ông thấy cái thân-thể
của ông âm-thầm già chết như thế, nên ông lo buồn; vậy ở nơi thân-thể sanh diệt,
già chết này, ông có biết được cái gì chẳng sanh diệt già chết không?
Vua Ba-tư-nặc chắp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế-Tôn, con thật không biết!
XI. Phật chỉ “cái thấy” không sanh-diệt.
Phật dạy rằng:
- Tôi nay chỉ cho ông thấy cái không sanh diệt.
- Này Ðại-vương, khi ông mấy tuổi mới thấy được nước
sông Hằng?
Vua đáp:
- Khi lên ba tuổi, con được mẹ bồng đến yết-kiến Thần
Kỳ-bà-thiên (thần Trường-thọ), đi ngang qua sông này, nên lúc bấy giờ con đã thấy
được sông Hằng.
Phật nói:
- Hôm nay ông thấy sông Hằng, vậy cái “thấy” đó có khác
không?
Vua thưa:
- Khi con ba tuổi thấy sông Hằng, đến lúc mười ba tuổi
và nay được sáu mươi hai tuổi, thấy sông Hằng cũng đều không khác.
Phật dạy:
- Ngày nay ông lo buồn cho thân ông già yếu, đầu bạc
mặt nhăn, không được như lúc còn trẻ. Vậy nay sáu mươi hai tuổi,
ông xem thấy sông Hằng, cùng với khi còn trẻ thấy sông Hằng cái “thấy” đó, có già
trẻ không?
Vua Ba-tư-nặc thưa:
- Bạch Thế-Tôn, cái “thấy” không có già và trẻ.
Phật dạy:
- Này Ðại-vương, thân thể mặt mày ông tuy già, mà cái
“thấy” vẫn không già, vậy cái nào có già, thì cái ấy sẽ bị biến đổi, tiêu diệt;
còn cái nào không già, thì cái đó không biến đổi sanh diệt. Nó
đã không sanh diệt. Nó đã không sanh diệt, thì đâu có bị ông
làm cho nó sanh tử luân hồi được.
- Rõ ràng như thế, ông không hiểu sao mà còn dẫn lời
của ngoại-đạo Mạt-già-lê nói: Thân này chết rồi hoàn-toàn diệt
mất?
Vua cùng đại-chúng nghe Phật dạy rồi, đều biết rằng: người chết
rồi, là tâm bỏ thân này thọ thân khác, không phải mất hẳn. Ai nấy đều hớn-hở
vui mừng vì đặng lợi-ích chưa từng có.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ cái thấy không già trẻ, sanh diệt đó là Tâm.