Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Lục Ðộ

LỤC ÐỘ

Ðộ thứ nhất: BỐ-THÍ BA-LA-MẬT

A. MỞ-ÐỀ:

Ðạo Phật thường được gọi là Ðạo Từ-bi, vì tình thương trong Ðạo Phật rất bao-la, sâu rộng. Ðức Phật-tổ vì từ-bi mà đã xuất-gia để tìm đạo cứu khổ cho chúng-sinh. Vậy người Phật-tử, khi noi theo dấu chân Phật, cũng phải lấy từ-bi làm động tác chính cho sự tu-hành của mình.

Nhưng làm thế nào để thể-hiện được lòng từ-bi và làm cho nó tăng-trưởng? Phương-pháp mầu-nhiệm nhất là thực-hành pháp-môn Bố-thí Ba-la-mật, một trong sáu pháp-môn (lục-độ) mà đức Phật đã chế ra cho kẻ tu-hành có tâm trí rộng lớn thực-hành để độ mình và độ người ra khỏi biển sanh-tử luân-hồi và đến bờ giác-ngộ.

B. CHÁNH-ÐỀ:


I. ÐỊNH NGHĨA VỀ BỐ-THÍ BA-LA-MẬT

Bố là cùng khắp; Thí là cho, là trao tặng. Bố-thí là cho cùng khắp, cho tất cả mọi người, mọi vật, mọi nơi.

Ba-la-mật, nguyên âm tiếng Phạn là Paramita. Người Trung-hoa dịch nghĩa là “Bỉ ngạn đáo”, nói theo tiếng Việt là “đến bờ bên kia”.

Bố-thí Ba-la-mật, tức là một môn tu-hành bằng phương-pháp bố-thí, có công-năng như một chiếc thuyền, đưa mình và người từ bờ mê lầm của chúng-sinh sang bờ giác-ngộ của chư Phật.


II. THÀNH PHẦN CỦA BỐ-THÍ BA-LA-MẬT

Bố-thí Ba-la-mật gồm các loại sau đây: Tài-thí, Pháp-thí, Vô-úy-thí. Dưới đây chúng ta lần lượt tìm hiểu ý-nghĩa của các loại bố-thí ấy.

1. Tài-thí.

Tài-thí tức là đem tiền-bạc, của cải, vật thực của mình ra cho. Tài-thí có 2 loại:

a) Nội-tài. – Là những vật chí thân quí-báu nhất của mình như thân-mạng, đời sống của mình. Thí nội-tài ở đây tức là hy-sinh thân-mạng để cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy-nan. Trong các chuyện tiền thân của đức Phật Thích-ca, chúng ta đã thấy nhiều gương thí nội-tài, như câu chuyện người lái-buôn kia, trong khi đi biển bị thuyền chìm đã tự hy-sinh thân-mạng bằng cách buông tay khỏi cột buồm mà mình đang bám vào, để nhường chỗ cho những hành-khách xấu số khác khỏi chết đuối.

Thí nội-tài là một cử-chỉ hy-sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu lòng từ-bi, bác-ái mới làm được. Nếu còn xem thân mạng mình là quý, là trọng hơn thân mạng kẻ khác thì chắc-chắn không bao giờ thực-hiện được loại bố-thí này.

b) Ngoại-tài. – Là những vật thường dùng của mình như thức ăn đồ mặc, tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa v.v… Ðem những vật ấy ra cho những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là thí ngoại-tài.

2.     Pháp-thí.

Ðem lời hay, lẽ phải, những chân-lý đúng-đắn, những lời dạy quý-báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc y theo giới-luật của Phật tu-hành thành thật để làm khuôn-mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà qui-chánh đều là pháp-thí. Pháp-thí có một giá-trị rất lớn-lao hơn cả tài-thí, vì tài-thí chỉ giúp người khác đỡ túng thiếu về phương-diện vật-chất trong một thời-gian, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Nhưng pháp-thí giúp-đỡ người rất nhiều về phương-diện tinh-thần, không riêng gì đối với người nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức-tước; không phải chỉ có ảnh-hưởng tốt trong một giai-đoạn, mà còn gieo nhân lành cho nhiều đời kiếp về sau. Vì những lẽ đó, nên người Phật-tử chân-chính, không bao giờ bỏ mất một dịp nào mà không làm pháp-thí, cả về phương-diện khẩu-giáo (dùng lời-lẽ đúng Phật-pháp để chỉ dạy) lẫn phương-diện thân-giáo (dùng đời sống chân-chính hợp đạo để chỉ dạy).

3.      Vô-úy-thí.

Vô-úy-thí nghĩa là không sợ. Vô-úy-thí là làm cho người khác không sợ, hết sợ. Phép thí này mới nghe thì tưởng như là không quan-trọng gì cả. Nhưng nếu suy-nghĩ một cách chín-chắn, chúng ta sẽ thấy đức Phật thật vô cùng thâm-thúy khi chế ra pháp thí này.

Chúng ta hãy nghĩ lại mà xem, có phải trong một đời người, cái sợ đã chiếm quá nửa cuộc đời rồi không? Khi nhỏ, chúng ta sợ la rầy, sợ đánh đập, sợ ma quỉ… khi tráng-niên sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ giặc, sợ thiếu công-danh, sự-nghiệp; khi già sợ đau, sợ ốm, sợ già, sợ chết… Chỉ toàn sợ và sợ. Ðó là chưa nói đến gặp thời buổi loạn-lạc, còn phải sợ sưu cao, thuế nặng, sợ quan tham, lại nhũng, sợ trộm cướp, lưu-manh, sợ tù, sợ tội, sợ chém, sợ giết… Bao nhiêu thứ sợ chồng-chất lên đầu người, làm cho đầu họ không dám ngửng lên, lưng họ còm xuống, đầu gối họ sắp qụy. Muốn có một hình-ảnh tượng trưng cho sự sợ-hãi, thì hãy lấy hình-ảnh người dân quê Việt-nam trong thời Pháp-thuộc thì rõ: Hai tay họ sẵn-sàng để chắp lạy, mắt không dám nhìn lên, lưng còng xuống và hai đầu gối sẵn-sàng để qùy mỗi khi nghe tiếng nạt của ông quan hay ông thực-dân hống hách.

Ðời sống đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Cho nên làm cho người hết sợ, chính là đã cứu cho họ bớt đi quá nửa khổ đau trong kiếp sống. Lòng từ-bi của đức Phật không nỡ thấy chúng-sinh khổ sở vì sợ, nên đã chế ra phép thí vô-úy.

Muốn thực hành pháp môn này, hành-giả trước tiên phải luyện cho mình một đức-tính đừng sợ gì cả. Mà kẻ tu-hành chân-chính, hiểu rõ giáo lý của Phật, thì còn sợ nỗi gì? Tiền của, họ không tham cho nên không sợ mất; danh lợi, họ không màng, nên không sợ thiếu; sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do cái tâm lý đó mà cõi lòng họ luôn luôn không xao động, nét mặt họ luôn luôn bình-tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian-nan nguy hiểm. Người tu hạnh thí vô-úy sẵn-sàng để nhảy xuống nước vớt người sắp chết chìm, nhảy vào lửa để cứu người sắp chết thiêu, xông vào đám cướp để cứu người lương thiện, đến gõ cửa công, minh oan cho người vô tội…

Tóm lại, người tu hạnh thí vô-úy, hễ đi đến đâu thì đem đến đó một nỗi bình-tĩnh, an vui cho mọi người và mọi vật.


III. PHẢI BỐ-THÍ NHƯ THẾ NÀO MỚI ÐÚNG CHÍNH-PHÁP?

Chúng ta đã biết qua các lối bố-thí Ba-la-mật. Ðến đây, chúng ta cũng cần biết rõ thái-độ của người tu hạnh bố-thí phải như thế nào.

Sự bố-thí như đã nói trên, thật ra không khó và không hiếm. Rất nhiều người có thể làm được. Trong đời, chúng ta thường thấy có nhiều kẻ giàu-có đem bạc ngàn bạc vạn ra bố-thí, có nhiều người bỏ cả tài-sản ra lập nhà thương, ký-nhi viện, trường học, có nhiều người dám liều mạng xông vào lửa để cứu kẻ sắp chết thiêu, nhảy xuống nước cứu người sắp chết đuối; có những kẻ anh hùng đem tài năng ra bảo vệ kẻ yếu hèn, hay dám đương đầu với bọn xăm-lăng để giữ gìn đất nước.

Về phương-diện thí pháp, có nhiều người đi đâu cũng đem đạo-lý ra giảng nói, đi đâu cũng tỏ ra ta đây hiểu đạo, chứng quả.

Nếu nhìn bề ngoài, thì những hành-động ấy đều là bố-thí cả. Nhưng nếu xét về tâm-lý và động lực thúc đẩy bên trong, thì có thể có hai trường hợp khác xa nhau.

1.      Bố-thí chấp tướng.

Nghĩa là bố-thí với một dụng tâm không trong sạch. Chúng ta đã biết bố-thí là do từ tâm mà ra. Bố-thí là một pháp môn để tự-độ và độ-tha. Nhưng nếu bố-thí với một dụng tâm khác như cầu danh, cầu tài lợi (cho ít mà cầu được trả lại nhiều), hoặc vì ganh đua, hoặc vì muốn làm nhục người chịu ơn, hoặc vì bị ép buộc, hoặc cho với một tâm-lý khinh rẽ, hối tiếc hoặc cho với một tâm-lý lừa lộc, bất công, thiên-vị; nếu bố-thí với một tâm-lý, một thái-độ như thế, thì tất cả là bố-thí chấp-tướng.

Chẳng hạn đem tiền của ra lập nhà thương, trưòng học để được nêu trên mặt báo, để được nhắc nhở đến luôn; hoặc nhảy xuống sông cứu người chết đuối để được “người đẹp” tán thưởng; hoặc giết giặc để mong được tấm huy chương, hoặc giảng nói đạo-lý để tỏ ra mình học rộng biết nhiều. Những hành-vi bên ngoài đẹp-đẽ ấy, bên trong thật không có giá-trị gì.

Bố-thí với tâm-lý, với động-lực như thế, không phải là bố-thí Ba-la-mật; và phước-đức của những hành-động ấy thuộc về hữu-lậu rất mõng-manh, như mây nổi giữa hư-không, gặp gió thổi liền tiêu tan.

2.      Bố-thí không chấp tướng.

Nghĩa là bố-thí với một dụng ý trong sạch, đúng với ý nghĩa của nó.

Trong khi bố-thí, hành-giả vì tâm từ-bi bình-đẳng, xem chúng-sinh như con, nên không sinh tâm vị-kỷ, không phân biệt bỉ thử, thân sơ. Hành-giả vì biết tài-sản cũng như thân-mạng mình đều giả tạm, vô thường, nên không tham-lam, tiếc-nuối. Hành-giả vì biết cái “ngã” không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và người nhận, không tự cao, tự đại.

Bố-thí với một tâm-địa trong sạch như trên sẽ được phước vô-lậu thanh-tịnh, mới đúng là bố-thí Ba-la-mật.

 

IV. CÔNG-ÐỨC BỐ-THÍ BA-LA-MẬT

Pháp bố-thí là cái nhân lành của quả phúc ở thế-gian và xuất thế-gian. Trong lục-độ vạn-hạnh, pháp bố-thí đứng đầu, vì nó tương đối dễ làm hơn tất cả các pháp, mà công-đức lại lợi lạc được cả đôi bên người nhận và kẻ cho:

1.      Ðối với người nhận.

Người đời không ai là đầy đủ. Kẻ được phần này thì thiếu phần khác; kẻ được vật-chất thì mất tinh-thần, kẻ đầy đủ tinh-thần lại thiếu thốn vật-chất.

Kẻ đang thiếu ăn mà được ăn, kẻ đang thiếu mặc mà được mặc, kẻ đang đau xót mà được vỗ-về, an-ủi, kẻ đang lo sợ mà được đùm-bọc che-chỡ thì thật là may mắn sung-sướng vô cùng. Trong một xã-hội có được nhiều người giàu lòng từ-bi bác-ái, luôn luôn tìm cách giúp người, thì xã-hội ấy chắc-chắn sẽ được an vui thịnh đạt.

2.      Ðối với người cho.

Sự bố-thí đã đành là lợi lạc cho người nhận, nhưng đối với người cho cũng không kém phần quý báu. Ngoài sự sung-sướng được thấy mình làm việc phải được thấy quần sinh sung-sướng, vui mừng, hành-giả còn nhờ bố-thí mà tiến mau, tiến xa trên đường đạo. Mỗi khi đem của-cải ra cho, là hành-giả có một dịp để chiến-thắng lòng tham-lam, bỏn-sẻn, ích-kỷ và nới rộng lòng từ-bi; mỗi khi hy-sinh tánh-mạng để cứu giúp người, là hành-giả có dịp để thử thách lòng tham sống, sợ chết, và trau dồi đức tánh lợi-tha, bình-tĩnh. Mỗi khi cho mà không kể kẻ thân người thù, là hành-giả có dịp để chiến-đấu với lòng sân-hận, và trau dồi thêm đức tính từ-bi, bình-đẳng. Mỗi khi cho mà không nghĩ đến kẻ cho hơn người nhận, là hành-giả có một dịp để chiến-đấu với ngã-chấp, ngã-ái, ngã-mạn. Nếu hành-giả thí pháp, thì đó là những cơ hội để mình tự nhắc nhở, ghi nhớ những lời đức Phật đã dạy, những công-đức mà Ngài đã làm để noi theo.

 

C. KẾT-LUẬN:

Chúng ta đã thấy rõ giá-trị của pháp Bố-thí Ba-la-mật. Công-đức của nó không những chỉ riêng cho người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ người mà vừa độ mình. Nó có công năng đưa mình và người từ bờ mê lần đến bờ giác-ngộ, từ địa vị phàm-phu đến quả vị Bồ-tát.

Vậy xin khuyên các Phật-tử đều phát tâm Bồ-đề, tu hạnh bố-thí Ba-la-mật, để trên cầu thành quả Phật, dưới hóa-độ chúng-sinh, đền ơn Tam-Bảo.

 

Ðộ thứ hai: TRÌ-GIỚI BA-LA-MẬT

A. MỞ-ÐỀ:

Bất luận một đoàn-thể, một tổ-chức nào trong xã-hội, muốn có quy-củ, có đường-lối để tiến-triển, đều phải có kỷ-luật giới-điều. Kỷ-luật càng chặt-chẽ thì đời sống chung của tổ-chức, cũng như của mỗi cá-nhân trong tổ-chức ấy lại càng mau tiến phát. Trái lại, một đoàn-thể không kỷ-luật là một toán người ô-hợp, dù ban đầu có đông-đảo, hùng-mạnh bao nhiêu, rồi chẳng bao lâu cũng sẽ tan rã.

Kỷ-luật bao giờ cũng do những người lãnh-đạo đặt ra. Một người lãnh-đạo càng sáng-suốt bao nhiêu, có kinh-nghiệm bao nhiêu thì qui-luật, giới-điều mà họ chế ra, lại càng có giá-trị thực-tiễn, có công-dụng quí báu bấy nhiêu.

Ðạo Phật là một cái Ðạo có mục-đích đưa người đến chỗ giác-ngộ, và vị sáng-lập là đức Thích-Ca, một đấng giác-ngộ hoàn-toàn. Vậy những giới-luật, những giáo-điều của Ðạo Phật tất-nhiên là phải có một giá-trị, một công-dụng quí báu, bổ-ích vô cùng cho những ai muốn theo dấu chân của đức Phật.

Chính vì sự quan trọng và lợi-ích lớn-lao của giới-luật như thế, nên đức Phật đã nhiều lần nhắn-nhủ với các hàng đệ-tử của Ngài, phải nghiêm trì giới-luật. Ngày thường dạy: “Gặp thời không có Phật, hãy lấy giới-luật làm thầy”. Kinh Phạm-võng cũng có chép: “Giới sáng như mặt nhật, quí báu như ngọc châu anh-lạc. Các vị Bồ-tát đều do trì giới thanh-tịnh mà thành Chánh-giác”.


B. CHÁNH-ÐỀ:

I. ÐỊNH NGHĨA VỀ TRÌ-GIỚI BA-LA-MẬT

“Trì” là giữ giới chặt-chẽ; “Giới” là những điều răn dạy, ngăn cấm, những qui-luật mà đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các đệ-tử của Ngài đi vào con đường chánh, và tránh cho họ những hầm sâu hố hiểm mà họ có thể rơi vào, trên con đường đi đến quả-vị Phật.

Vậy trì-giới ba-la-mật là một môn tu để đi đến bờ giác-ngộ bằng cách giữ-gìn nghiêm-chỉnh, trọn vẹn giới-luật mà đức Phật đã răn dạy.


II. THÀNH PHẦN CỦA GIỚI-LUẬT

Căn-cơ của chúng-sanh không đồng nhau, và sự tu-hành của đệ-tử Phật cũng có nhiều cách; vì thế, đức Phật phải chế ra rất nhiều giới-luật và phân ra nhiều loại để áp-dụng cho sát căn-cơ và lối tu của mỗi hạng người. Tuy thế, chúng ta có thể phân-chia giới-luật của Phật ra làm ba phần và hai cấp bậc:

-          Giới tại-gia cho hàng Tiểu-thừa.

-          Giới xuất-gia

-          Giới Ðạo và Tục thông-hành (Bồ-tát giới) cho hàng Ðại-thừa.

1.      Giới tại-gia.

Là những giới dành cho những người chưa xuất-gia trong hàng Tiểu-thừa, tức là những cận-sự-nam và cận-sự-nữ (cư-sĩ tại-gia). Những người này có thể thọ-trì từ một đến năm giới (ngũ giới) hay tám trai-giới (bát quan trai).

2.      Giới xuất-gia.

Xuất-gia gồm có năm chúng: Sa-di, Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na-ni, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Các chúng này, cứ tùy theo sự tu-hành thấp hay cao, nam hay nữ mà giữ giới nhiều hay ít.

-          Sa-di và Sa-di-ni phải giữ 10 giới.

-          Thức-xoa-ma-na-ni phải giữ 6 điều giới và tập 296 hạnh giới.

-          Tỳ-kheo phải giữ 250 giới.

-          Tỳ-kheo-ni phải giữ 348 giới.

3.      Giới đạo tục thông-hành.

Giới đạo tục thông-hành chính là giới Bồ-tát. Ấy là giới mà Phật-tử tại-gia và xuất-gia trong hàng Ðại-thừa phải thọ-trì, sau khi đã phát tâm Bồ-đề tu Bồ-tát hạnh để rộng bề làm Phật-sự và hóa-độ chúng-sinh.

Phạm-vi bài này chỉ nói về Ðại-thừa Bồ-tát giới và đây là những giới mà người tu hạnh trì-giới ba-la-mật cần phải biết và giữ cho đúng.


Bồ-tát giới gồm có:

-          Nhiếp luật nghi giới. - Người thọ trì “nhiếp luật nghi giới” là người quyết giữ đúng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh, nghĩa là quyết không làm một việc ác nào cả.

-          Nhiếp thiện pháp giới. - Người thọ trì “nhiếp thiện pháp giới” là người quyết tâm làm tất cả các việc lành.

-          Nhiêu ích hữu tình giới. - Người thọ trì giới này là người quyết tâm tu hạnh từ-bi, hỷ-xả, làm các điều lợi-ích cho tất cả chúng-sinh, không một loài nào mà chẳng hóa-độ.


III. PHẢI TRÌ GIỚI NHƯ THẾ NÀO MỚI ÐÚNG CHÁNH-PHÁP

Cũng như pháp tu bố-thí nói ở bài trước; trì-giới ba-la-mật cũng có hai cách: Trì-giới sai chánh-pháp và trì-giới đúng chánh-pháp, hay nói theo danh-từ nhà Phật là: Trì-giới chấp tướng và trì-giới không chấp tướng.

1.      Trì-giới chấp tướng.

Trì-giới chấp tướng là trì-giới mà chỉ có hình-thức bên ngoài, chứ bên trong thì rất nhiễm-ô. Chẳng hạn, trì-giới vì háo thắng để được người đời khen ngợi; trì-giới với một tâm-lý tự-cao tự-đại, cho mình hơn người, và khinh dễ người phạm giới; trì-giới vì bị ép buộc, nên thiếu hoan-hỷ mà sanh tâm buồn phiền, miễn cưỡng… trì-giới như thế là thiếu thành tâm, là giả dối, đánh lừa mình và người. Trì-giới như thế chẳng có ích lợi gì, chỉ thêm mất thời giơ và không phải là trì-giới Ba-la-mật.

2.      Trì-giới không chấp tướng.

Trì-giới không chấp tướng là làm theo đúng vẹn-toàn các điều răn cấm mà đức Phật đã chỉ dạy, không vì danh-lợi, không vì háo-thắng, không vì bị hoàn-cảnh ép buộc mà làm.

Trong khi giữ giới, hành-giả không hề nghĩ mình giỏi hơn người, cũng không chấp nê theo giới-luật, khinh dễ người phạm giới. Hành-giả chỉ vì thuận theo đức-tánh vốn không nhiễm trước mà làm điều lợi ích cho tất cả chúng-sinh và nhìn nhận “trì-giới” là bổn phận của mình không thể bỏ qua được. Trì-giới như thế mới đúng là trì-giới Ba-la-mật, công đức sẽ vô lượng vô biên.

 

IV. CÔNG-ÐỨC TRÌ-GIỚI BA-LA-MẬT

Như trên đã nói, trì-giới ba-la-mật có một hiệu-lực rất lớn lao cho việc tu hành của người Phật-tử. Phật-tử thọ trì giới luật nghiêm trang thanh-tịnh thì lúc hiện-tiền tâm được thơ thới an vui, không có gì phải ân-hận. Ðối với làng nước, hành-giả được niềm-nở kính nhường, nhất là đối với các tín-đồ, lúc nào cũng được hoan-hỷ, quý trọng. Trong kiếp vị-lai, hành-giả chắc chắn sẽ được chứng quả Bồ-đề, thoát vòng sanh-tử luân-hồi.

Nếu chúng ta đem so-sánh pháp môn bố-thí với trì-giới Ba-la-mật, thì sẽ thấy phép trì-giới hơn hẳn bố-thí một bậc.

Người Phật-tử có tài-thí, pháp-thí mà không có trì-giới, thì không thể thành Phật, vì người ấy vừa tạo phước mà cũng vừa gây tội, do chỗ không trì-giới, thành thử gây nghiệp thiện ác xen tạp, đâu được trọn lành mà mong chứng đến quả thánh?

Trái lại, người Phật-tử, nếu chỉ chăm-chú nghiêm trì giới luật thì chắc-chắn sẽ thành Phật. Vì sao vậy? - Vì trong lúc chuyên tâm trì giới là đã có tài-thí và pháp-thí hàm xúc rồi:

- Khi hành-giả trì giới được thanh-tịnh, thì tâm từ-bi, hỷ-xả bủa khắp. Hễ họ thấy kẻ nào làm hạnh tài-thí, pháp-thí cho ai, thì liền sanh tâm hoan-hỷ tán-thành công-đức, như thế tức là người ấy được một phần công đức “tùy hỷ bố-thí”.

Hơn nữa, khi hành-giả thành thật chuyên trì giới luật, thực hành theo đúng lời Phật dạy, làm gương-mẫu cho quần-sinh bắt chước, tức là đã thí pháp bằng thân-giáo. Còn khi hành-giả trì tụng giới luật cho nhập tâm thuần-thục, cũng tức là thí pháp bằng khẩu-giáo.

Xem như thế thì trì-giới Ba-la-mật là một pháp môn rất thần diệu, có thể bao gồm cả bố-thí lẫn trì-giới, chắc chắn sẽ đưa hành-giả đến bờ giải-thoát.

 

C. KẾT-LUẬN:

Giá-trị và công năng của trì-giới Ba-la-mật đã được chứng-minh một cách rõ-ràng, chúng ta không còn nghi ngờ điều gì nữa. Giờ đây chúng ta còn một quyến-định dứt-khoát là phát tâm dõng-mãnh trì-giới Ba-la-mật.

Sự tu chỉ cốt ở thật-hành. Dù thông-minh tài trí đến đâu, dù thâm hiểu giáo-lý đến đâu, mà không thực hành thì cũng vô ích. Chúng ta đừng nên quên rằng chữ “hành” thường đi theo chữ “học” và chữ “tu” (học hành, tu hành). Ðạo Nho cũng có câu “học nhi thời tập chi”. Ðạo Phật lại dạy một cách mạnh mẽ hơn: “tu mà không học là tu mù; học mà không tu là cái đảy sách”. Nhất là khi đã mang danh Phật-tử, đã thọ giới mà không giữ giới, thì chẳng khác gì đem giới luật của Phật ra mà phỉ-báng và làm trò cười cho thế-gian.

Vậy chúng tôi xin khuyên quí Phật-tử, sau khi đã nhận chân giá-trị cao quí và lợi-ích của pháp môn trì-giới Ba-la-mật, hãy mau mau phát tâm rộng lớn tu hành trì-giới này, để chóng thoát vòng sinh-tử khổ đau.

 

Ðộ thứ ba: TINH-TẤN BA-LA-MẬT

A. MỞ-ÐỀ:

Ngạn-ngữ ta có câu: “Ăn không lo, của kho cũng hết”. Thực vậy, dù tiền rừng bạc bể mà ăn rồi ngồi không, thì cơ nghiệp cũng có ngày tiêu tan. ÐốI với người giàu, lười-biếng còn như thế, huống hồ đối với người nghèo túng, thì lười biếng là một chứng bệnh rất là nguy hiểm…

- Người làm ruộng không siêng năng cày cấy, bón phân tát nước, thức khuya dậy sớm, lo lắng mọi việc, thì đến mùa lúa, chắc-chắn sẽ bị thất bại, thiếu trước hụt sau, nợ nần vây kéo, cả năm buồn-bã.

- Anh thợ máy hay chị thợ may không siêng-năng với nghề-nghiệp, lười biếng ăn chơi mãn tháng suốt năm, vì tiền bạc không dư nên phải vất-vả, đến khi đau ốm lại càng khổ sở vô cùng.

- Người đi buôn bán, không siêng năng thức khuya dậy sớm, mua tảo bán tần, thì phảI bị lỗ-lã, thâm thủng nhiều ngày, mang công mắc nợ, nên phảI sang tiệm thế đồ, gia-tài khánh kiệt.

Trong đạo cũng vậy, lười-biếng là một cái tội. Người học đạo không tinh-tấn thức khuya dậy sớm tham-thiền, quán-tưởng, niệm Phật tụng kinh, không lo hoằng dương chánh pháp, cứ biếng nhác qua ngày, tiêu pha của đàn-na thí-chủ; như thế, mình đã không tự độ, thì làm sao độ tha được? Hiện tại không làm lợi ích gì cho đạo, sau khi chết phải trả lại nợ cho đàn-na thí-chủ. Nói chung lại, người lười-biếng dù ở ngoài đời hay trong đạo, dù làm việc gì cũng không thành công.

Muốn tránh những điều tai hại trên, ta phải tu pháp Tinh-tấn Ba-la-mật.

 

B. CHÁNH-ÐỀ:

I. ÐỊNH NGHĨA

“Tinh” là tinh chuyên (ròng rặt) một việc không có xen tạp. “Tấn” là tiến tới mãi mãi không dừng, không gián-đoạn hay thối lùi.

Hai chữ tinh-tấn nói theo nghĩa thông thường là siêng năng chuyên cần; theo Duy-thức-học, thì tinh-tấn là một món trong mười một món thiện tâm-sở, không phải thuộc về phần tội ác. Bởi vậy, người siêng năng làm những điều sai quấy như siêng-năng đào tường khoét vách, cờ bạc rượu chè thì không phải là tinh-tấn, mà duy-thức học gọi là “phóng dật” (buông lung).


II. THÀNH PHẦN CỦA TINH-TẤN BA-LA-MẬT

a) Tinh-tấn ngăn các điều ác đừng sanh. – Nghĩa là những điều ác, từ trước đến giờ mình chưa làm đến, thì từ nay về sau cũng phải tinh-tấn đừng cho nó phát-sinh. Thí-dụ như từ hồi nào tới giờ, ta không hề sát-sinh hại vật, trộm cướp, gian-giảo, trêu hoa ghẹo nguyệt, nói lời dối-trá hung ác và cờ bạc rượu chè v.v… thì từ đây về sau ta cũng phải tinh-tấn thêm lên, cố-gắng giữ-gìn đừng cho sanh-khởi.

b) Tinh-tấn diệt cho mau các điều ác đã sanh. – Nghĩa là những điều ác mà mình đã lỡ làm rồi, thì phải tinh-tấn diệt trừ cho mau, thí dụ như ta đã lỡ tạo những tội ác như tham-lam trộm cướp, đa mê sắc dục, giận dữ kiêu căng, thì nay ta phải tinh-tấn đừng cho nó tăng-trưởng thêm nữa, mà trái lạiphải diệt trừ cho chóng.

c) Tinh-tấn làm cho các điều lành phát sinh. - Nghĩa là từ trước đến nay có những điều lành ta chưa thực-hiện được, thì nay ta phải tinh-tấn để cho nó phát hiện ra trong hành-động. Thí dụ, lâu nay ta chưa làm những việc từ thiện xã-hội, bỏ công bỏ của ra cứu giúp người nghèo đói tật nguyền, hay ta chưa quy-y thọ giới, ăn chay niệm Phật, học đạo nghe kinh v.v… thì từ ngày hôm nay ta phải tinh-tấn làm cho các điều lành này được phát sanh.

d) Tinh-tấn làm cho các điều lành tăng-trưởng. - Nghĩa là các điều lành đã được phát sanh rồi, nay ta phải tinh-tấn làm cho nó tăng trưởng hơn nữa. Thí dụ, ta đã làm các việc từ thiện rồi, nay ta càng làm thêm nữa, hay ta đã quy-y rồi, bây giờ phải tinh-tấn phát nguyện trì-giới. Nếu ta đã thọ quy-y rồi, bây giờ phải tinh-tấn tu bát-quan-trai…

Tóm lại, tất cả các việc lành từ ngoài đời cho đến trong đạo, mình đã làm thì phải tinh-tấn làm sao cho mỗi ngày được phát-triển.


III. PHẢI TINH-TẤN NHƯ THẾ NÀO MỚI ÐÚNG CHÁNH PHÁP?

Tinh-tấn, cũng như bố-thí và trì-giớI, đều có hai phương-diện:

a)      Tinh-tấn có chấp tướng.

Có người trước mặt mọi người, thì rất tinh-tấn, lăn-xăn làm việc này việc khác, tỏ ra cần mẫn chăm-chỉ để được tiếng khen, nhưng không ai dòm ngó, thì lại rất giải-đãi. Có người vì người trên la rầy, quở phạt mà tinh-tấn, nhưng khi được tự-do, không ai kiểm-soát thì lại buông-lung. Có người tinh-tấn với một tâm lý háo-thắng, quyết hơn ngườI để tự-cao tự-đại.

Tinh-tấn với một dụng tâm không trong sạch, như vì danh, vì lợi, vì sợ, vì kiêu-căng v.v… đều là tinh-tấn chấp tướng, không đúng là tinh-tấn Ba-la-mật.

b)      Tinh-tấn không chấp tướng.

Tinh-tấn không chấp tướng là tinh-tấn một cách chân-thành, không vì dục-vọng mà chính vì mình nhiều tội lỗi, nên quyết tâm sửa chữa, thấy mình cần phải thoát ra khỏi luân-hồi, nên phải gấp rút chuyên-cần tu luyện. Người tinh-tấn không chấp tướng thì dù ở giữa đám đông người hay ở một mình, dù có người nhắc-nhở kiểm-soát hay không, dù đạt được quả vị cao hay thấp v.v… cũng không bao giờ thay đổi ý-chí và thái-độ quyết tiến của mình, mà mục đích là giải-thoát mình và người ra khỏi cảnh khổ sanh-tử luân hồi.


IV. CÔNG-ÐỨC CỦA TINH-TẤN BA-LA-MẬT

Trong tất cả sự-nghiệp vĩ-đại ở đời, hay kết-quả vẻ-vang trong đạo, cái bí-quyết duy-nhất để thành-công là pháp tinh-tấn. Tinh-tấn như là chất dầu xăng làm cho chiếc xe hơi chạy. Ðộng cơ dù tốt, người lái dù giỏi, con đường dù bằng-phẳng, mục-đích dù gần, mà không có dầu xăng thì chiếc xe vẫn ở nguyên một chỗ.

Cho nên câu nói cuối cùng của đức Phật Thích-Ca với các đệ-tử trước khi nhập-diệt là: “Hỡi các người, hãy tinh-tấn lên để giải-thoát”. Người thọ-trì Tam-quy, tinh-tấn giữ năm giới và làm các điều phước-thiện, thì sẽ được sanh lại làm nhân-đạo, phúc thọ song toàn. Người tinh-tấn tu Thập-thiện và tu Tứ-thiền, Bát-định, thì sẽ sanh về cõi Trời Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Người thấy các khổ sanh lòng nhàm chán cảnh đời, quyết tâm dứt trừ các phiền-não, tinh-tấn tu ba mươi bảy phẩm trợ-đạo, kết-quả sẽ chứng được bốn quả Thanh-văn. Người quán thấy mười hai nhân-duyên là nguồn gốc của nhiều kiếp sanh-tử luân-hồi, tinh-tấn tu-hành, quyết đoạn trừ mười hai nhân-duyên, sẽ thành quả Duyên-giác. Các vị Bồ-tát, xứng theo tự-tánh vô-tham của mình, tinh-tấn tu pháp bố-thí ba-la-mật; xứng theo tự-tánh vô sân, tinh-tấn tu pháp nhẫn-nhục ba-la-mật; xứng theo tự-tánh vô-si, tinh-tấn tu pháp trí-huệ ba-la-mật; xứng theo tự-tánh thanh-tịnh, tinh-tấn tu pháp trì-giới ba-la-mật; xứng theo tự-tánh tịch-tịnh, tinh-tấn tu pháp thiền-định ba-la-mật… Tóm lại, các vị Bồ-tát trong khi tu, vì xứng với thể-tánh chân-tâm của mình mà tu pháp lục-độ, không chấp ở nơi ngã-tướng, nhân-tướng, chúng-sinh-tướng, thọ giả tướng, không thấy có mình, có người, có năng sở, bỉ thử, thì khi nhân hạnh Bồ-tát được viên-mãn, sẽ thành quả Phật.

Xem thế đủ biết công-đức của tinh-tấn lớn-lao biết chừng nào. Tu pháp-môn nào cũng vậy, hễ có tinh-tấn mới có hiệu-quả, không tinh-tấn thì hoàn-toàn thất-bại.

 

C. KẾT-LUẬN:

Giá-trị và lợi-ích của tinh-tấn không thể nghĩ bàn, vậy trong khi làm việc đời cũng như việc đạo, chúng ta phải luôn luôn chuẩn-bị sẵn đức tinh-tấn, như người tài-xế chuẩn-bị xăng nhớt, trước khi làm những cuộc hành-trình xa-xôi. Nếu chúng ta không luyện được đức tinh-tấn, không chiến-thắng được tánh giải-đãi, buông-lung thì chúng ta hãy cân-nhắc rằng, công việc mà chúng ta sắp làm sẽ hoàn-toàn thất-bại. Công-việc tu-hành, đi từ bờ mê đến bến ngộ, đường dài muôn trùng vạn dặm, trải bao bão táp mưa sa, nếu không có được đức tinh-tấn, như cái bùa hộ mệnh và bí-quyết tiến-thủ, thì chúng ta chỉ quanh-quẩn mãi trong biển sanh-tử luân-hồi.

Một lần nữa, hãy nghe lời đức Bổn-sư văng-vẳng bên tai: “Hỡi các người ! Hãy tinh-tấn lên để giải-thoát”.

 

Ðộ thứ tư: NHẪN-NHỤC BA-LA-MẬT

A. MỞ-ÐỀ:

Kinh Hoa-Nghiêm có nói: “Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai” (một niệm lòng sân-hận nổi lên, thì trăm ngàn muôn ức cửa nghiệp-chướng đều mở ra). Thật vậy, lắm người vì một phút không dằn được cơn tức giận, mà đánh đập vợ con đến tàn-tật, đốt phá của-cải quý-báu của ông cha để lại, rồi phải ân-hận suốt đời. Lắm lúc, vì không làm chủ được tánh nóng-nảy mà tình cốt-nhục phải chia ly, nghĩa vợ chồng phải phân rẽ, bạn chí thân trở thành kẻ oán-thù…

Người học đạo cũng vậy, nếu gặp nghịch-cảnh không nhẫn-nhịn được, thối chí nản lòng, đôi khi phải bị đọa-đày. Như ông Ðộc-giác tiên-nhân, vì một niệm sân-hận không nhẫn được, mà phải bị mất cả năm pháp thần-thông. Ông Uất-đầu-lam-phất, vì sân-hận mà phải đọa làm loài phi-ly-trùng (chồn bay). Nên sách có nói: “Nhất sân chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh công-đức chi sơn” (nghĩa là một đóm lửa sân, có thể đốt tan muôn mẫu rừng công-đức).

Vậy muốn trừ sân-hận một cách có hiệu-quả, phải tu pháp Nhẫn-nhục Ba-la-mật.


B. CHÁNH-ÐỀ:

I. ÐỊNH NGHĨA

“Nhẫn” là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng. “Nhục” là điều sĩ-nhục, điều xấu-hổ, làm tổn thương đến lòng tự-ái của mình.

Nhẫn-nhục Ba-la-mật là nhẫn-nhục đến chỗ cùng tột không còn ai có thể nhẫn-nhục hơn thế nữa.


II. THÀNH PHẦN CỦA NHẪN-NHỤC BA-LA-MẬT

1.      Thân nhẫn.

Ðối với nghịch cảnh như nắng mưa, nóng lạnh, đói khát, đau ốm, hoặc bị người đánh-đập, hành-hạ, làm bức não nơi thân, mình cũng cam chịu, không phàn-nàn hay chống cự lại. Ðây là sự chịu đựng về phần thể-xác.

2.      Khẩu nhẫn.

Thân đã nhẫn chịu không chống lại người mà miệng cũng không thốt ra những lời nguyền-rủa độc ác, trước những lời mạ-nhục chua cay, mắng nhiếc tồi-tệ hay đánh-đập tàn-nhẫn.

3.      Ý nhẫn.

Nhẫn-nhục cả trong tâm, không căm hờn, không oán giận, không nổi lên ý phản-đối, những tư-tưởng hắc-ám để trả thù.

Trong ba thứ nhẫn này, “ý nhẫn” là khó nhất và quan trọng nhất. Có nhiều khi thân có thể chịu đựng được cực-hình, nhưng miệng vẫn lẩm bẩm nguyền rủa. Thêm một từng nữa, miệng tuy không thốt ra những lời phản-đối, và tức giận vẫn đốt cháy tim gan.

Ðến khi “tâm ý” cũng không ngấm-ngầm nổi dậy phản-đối, sự tức-giận lắng xuống tận đáy lòng; đứng trước mọi nghịch-cảnh, lòng vẫn phẳng-lặng như không, thì nhẫn-nhục mới thật là hoàn-toàn.

Nếu bên trong mà chưa nhẫn được, thì thế nào giận-dữ cũng có ngày xuất hiện ra trong lời nói và hành-động.


III. PHẢI NHẪN-NHỤC NHƯ THẾ NÀO MỚI ÐÚNG CHÁNH PHÁP?

1.      Nhẫn-nhục chất tướng.

Nhẫn-nhục vì sợ quyền-thế; nhẫn-nhục vì đang nằm trong hoàn-cảnh bất lợi chưa thể trả thù được; nhẫn-nhục để mong cầu được người khen, hay được chức trọng, quyền cao; nhẫn-nhục vì khinh-bỉ đối-thủ, hay tự cho mình cao hơn người, không thèm chấp nê, phản-đối. Nhẫn-nhục như thế là nhẫn-nhục chấp tướng vì còn do dục-vọng tham, sân, si, mạn thúc-đẩy, chưa phải là nhẫn-nhục ba-la-mật.

2.      Nhẫn-nhục không chấp tướng.

Người tu hạnh nhẫn-nhục ba-la-mật, trước hết phải do ý muốn diệt trừ lòng sân-hận, kiêu-mạn, tật-đố, tự-ái, tham-lam… Nếu có người chửi mắng, mình phải bình-tĩnh tự nghĩ rằng: “Ta có làm điều gì sái quấy không? Nếu có, thì ta bị sỉ-nhục là phải, ta nên cám-ơn người. Nếu ta trong-trắng, thì những lời sỉ-nhục ấy có dính-líu gì đến ta đâu, mà phải khổ tâm nghĩ đến?”

Hơn nữa, người tu nhẫn-nhục còn nhắm mục-đích trau-giồi lòng từ-bi và hỷ-xả, ta nhẫn-nhục không oán giận, không trả thù là vì ta thương người, ta muốn xem mọi người như thân-thuộc anh em. Ta nhẫn-nhục vì ta không muốn cuộc đời là một đấu trường, một bãi chiến, một lò lửa của sân-hận, đốt thiêu tất cả.

Chúng ta hãy tập cho được nhẫn-nhục như ông Purna trong câu chuyện sau đây: “Khi Phật còn tại thế, một đệ-tử của Phật, ông Purna xin Phật đi qua truyền đạo tại xứ Chronaparanta, là một xứ có tiếng rất hung ác. Phật hỏi ông Purna:

- Ông đã phát nguyện đem đạo-pháp của ta đến truyền-bá cho dân xứ ấy, nhưng nếu họ không nghe, lại còn dùng lời hung-ác mắng chửi ông, thì ông nghĩ sao?

- Bạch Thế-tôn, con nghĩ: Họ là người tốt, vì họ không dùng cây đánh đập con, hay lấy đá ném con.

Phật nói tiếp:

- Nếu họ lấy cây đánh ông, hay dùng đá ném ông, thì ông nghĩ sao?

- Bạch Thế-tôn, con nghĩ: Họ vẫn còn lòng nhân, vì họ không chém giết hay đập con đến chết. Phật lại hỏi:

- Nếu họ chém giết hoặc đánh chết ông thì ông nghĩ sao?

- Bạch Thế-tôn, con nghĩ: Họ là ân-nhân của con, vì nhờ họ mà con thoát được thân đau-khổ, bỏ được bọc thúi-tha, từ biệt đời sống khốn-nạn này.

Ðức Phật khen:

- Hay lắm! Ông nhẫn-nhục được như vậy, thì mới có thể qua xứ ấy truyền đạo được !

Ông Purna qua xứ Chronaparanta truyền đạo không bao lâu, dân chúng xứ ấy đều qui đầu Phật-pháp cả”.

Nhẫn-nhục như ông Purna mớI thật đúng là nhẫn-nhục Ba-la-mật, nghĩa là nhẫn từ ngoài thân đến trong tâm, nhẫn mà không thấy mình nhẫn và cảnh nhục để nhẫn.


IV. CÔNG-ÐỨC CỦA PHÉP NHẪN-NHỤC BA-LA-MẬT

Như đoạn mở đầu đã nói, lửa sân-hận có thể đốt thiêu tất cả những gì quý-báu, mà loài người đã xây-dựng được trên thế-giới này. Lửa sân-hận chỉ có thể dập tắt bằng nước nhẫn-nhục Ba-la-mật.

Không nhẫn-nhục thì gia-đình ly-tán, bạn hữu chia lìa, tớ thấy đoạn-tuyệt, đồng-bào xung-đột, thế-giới chiến-tranh.

Có nhẫn-nhục thì gia-đình sum-họp, bạn hữu tương thân, tớ thầy trung-tín, đồng-bào đoàn-kết, thế-giới hòa-bình. Riêng đối với bản-thân, không nhẫn-nhục thì lửa giận thiêu đốt lòng mình và dục-vọng hoành hành, sự nghiệp tiêu-tan, mọi người xa-lánh, đạo quả khó tròn.

Có nhẫn-nhục thì lòng từ chan-chứa, thanh-tịnh tràn lan, sự nghiệp dâng cao, người người quí trọng, đạo quả viên thành.

Vì nhận thấy công-đức lớn-lao và quý-báu của nhẫn-nhục cho nên cổ-nhân đã có nhắn-nhủ với người đời một cách mạnh-mẽ như sau:

Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận

Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu

Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc

Hưu hưu hưu, cái thế công danh bất tự-do

Nghĩa là:

Nhẫn nhẫn nhẫn (thân nhẫn, miệng nhẫn, ý nhẫn) thì những điều trái-chủ oan-gia từ đây dứt hết.

Nhịn nhịn nhịn (thân nhịn, miệng nhịn, ý nhịn) thì ngàn tai muôn họa đồng thời tiêu.

Nín nín nín (thân nín, miệng nín, ý nín) thì cảnh-giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.

Thôi thôi thôi (thân, miệng, tâm đều thôi) thì những công danh cái thế không còn tự-do.


C. KẾT-LUẬN:

Chúng ta không còn nghi-ngờ gì nữa giá-trị và công-đức lớn-lao, quí báu của nhẫn-nhục. Giờ đây chúng ta chỉ còn quyết tâm thực-hành ngay pháp-môn này. Nhất là đối với Phật-tử nào đã nhiều lần bị lửa giận tàn phá tâm can, gia-đình và sự nghiệp của mình, hãy mau mau tu-tập phép nhẫn-nhục nầy. Ðừng để phải ăn-năn, hối-tiếc và khổ đau thêm một lần nữa vì lửa nóng giận.

Kẻ tu-hành lại càng gấp rút thật hành pháp-môn nầy. Không có gì tai hại cho sự nghiệp tu-hành của mình và làm cho người chung-quanh khinh hờn, xa lánh bằng sự nóng giận, cộc-cằn nơi một kẻ xuất-gia cầu đạo. Dù những người ấy có tinh-thông kinh điển bao nhiêu, tu-hành bao nhiêu, mà khi thấy nét mặt họ đỏ gay, giọng nói họ quát-tháo, cử-chỉ họ mất tự-chủ, thì người chung-quanh không còn tin-tưởng ở sự tu-hành của họ nữa, vì sự nóng giận tố-cáo họ một cách hùng-hồn.

Chúng tôi tưởng không cần phải nói nhiều hơn nữa về những tai-hại của giận-dữ, vì chắc rằng những ai đã có lần giận dữ cũng đã thấy rõ như thế rồi.

Ðể kết-luận bài nầy, chúng tôi chân-thành cầu mong cho mọi người cùng chúng tôi, đều thật hành pháp-môn nhẫn-nhục nầy một cách có hiệu quả, để cõi đời thêm phần an-lạc.

 

Ðộ thứ năm: THIỀN-ÐỊNH BA-LA-MẬT

A. MỞ-ÐỀ:

Kẻ tu-hành muốn đến bờ giải-thoát hoàn-toàn, cần phải tu cả phước lẫn huệ. Trong bốn độ trước của lục-độ mà chúng ta đã học, chỉ nói về tu phước. Trong hai độ cuối cùng là Thiền-định và Trí-huệ, chúng ta sẽ học về tu huệ.

Trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu tánh-cánh quan-trọng và giá-trị của Thiền-định.


B. CHÁNH-ÐỀ:

I. ÐỊNH NGHĨA THIỀN-ÐỊNH BA-LA-MẬT

Thiền-định là gì? - Thiền phiên-âm theo tiếng Phạn là Thiền-na, xưa dịch là tư-duy, nay các học-giả dịch là Tĩnh-lự. Tu Tư-duy có nghĩa là tu-tập bằng phương-pháp suy-nghiệm, nghiên-tầm và suy-cứu về những đối-tượng của tâm thức. Tĩnh-lự có nghĩa là dùng tâm-thể vắng-lặng để thẩm-sát các vấn-đề đạo-pháp.

Còn chữ Ðịnh, phiên-âm theo tiếng Phạn là Tam-muội (Samadhi), có nghĩa là tập-trung tâm-ý vào một đối-tượng duy nhất, không để cho tâm-ý tán-loạn. Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh lại, ta có một định-nghĩa chung: Tập-trung tâm-ý vào một đối-tượng duy-nhất không cho tán-loạn, để tâm-thể được vắng-lặng và cho tâm-dụng được mạnh-mẽ, hầu quán-sát và suy nghiệm chân-lý.


II. CÁC LOẠI THIỀN-ÐỊNH

Thiền-định có thể gọi là một trạng-thái của tâm-lý, trạng-thái ấy gọi là trạng-thái Tĩnh-lự. Song ở Dục-giới, tâm-lý không thể có được trạng-thái ấy, vì nó chỉ phát-hiện ở Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Rõ hơn nữa là Thiền thuộc về Sắc-giới và Ðịnh thuộc về Vô-sắc-giới. Ở mỗi giới, Thiền và Ðịnh đều phân làm bốn cấp-bực từ thấp lên cao, cho nên có danh-từ là Tứ-thiền và Tứ-định.

Tứ-thiền và Tứ-định này, tuy là kết-quả của công-phu tu-tập Thiền-định, hay gieo trồng thiện-căn, nhưng cũng là chung cho cả Phật-pháp, cả Thế-gian-pháp, cả Thánh, cả Phàm. Nói rõ hơn, là dù theo phương-pháp Ðạo Phật hay phương-pháp nào, nếu có đường-lối, có công-phu thì đều có thể đạt đến Tứ-thiền và Tứ-định; nhưng đây cũng chỉ là Thế-gian-pháp mà thôi.

Còn nói về pháp Ðịnh của chư Phật, Bồ-tát và A-la-hán thì khác. Ðó là Thiền-định thuộc Xuất-thế-gian pháp, không thể phát-hiện trong phạm-vi Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới được. Muốn đạt đến trạng-thái Tĩnh-lự của các bậc ấy, người ta phải đạt đến sự thoát-ly tam-giới. Còn lẩn-quẩn trong tam-giới thì tâm-ý chỉ có thể đạt đến Tứ-định là cùng.

Muốn có được Tứ-thiền và Tứ-định, chỉ phảI thoát-ly và đoạn-diệt phiền-não ở Dục-giới. Nhưng nếu muốn đạt các pháp Ðịnh-vô-lậu, thì phải diệt-trừ tất cả các phiền-não của Vô-sắc-giới.

Trước khi mong đến được Ðịnh-vô-lậu, phải cần đến Thiền, bởi vì Thiền là căn-bản của Ðịnh. Có được ngũ-nhãn, lục-thông cũng nhờ Thiền. Vả lại, Thiền có công-dụng thẩm-sát, nghiên-cứu. Nếu muốn quan-niệm chân-lý, tất phải nhờ đến Thiền, do đó Thiền là pháp tối yếu cho kẻ học đạo.

Ðứng về phương-diện các trình-độ của Thiền, kinh sách có dạy như sau:

1.      Thế-gian thiền.

Thiền này có hai loại: Căn-bản vị thiền và Căn-bản tịnh thiền. Căn-bản vị thiền gồm có mười hai phẩm, phân làm ba: Tứ-thiền, Tứ-vô-lượng và Tứ-không.

Người phàm chán cảnh tán-loạn của Dục-giới thì tu Tứ-thiền. Người muốn tạo phước lớn thì tu Tứ-vô-lượng. Kẻ nhàm chán cảnh Sắc-giới chật hẹp thì tu Tứ-không. Vì mười hai phẩm Thiền này có thể làm căn-bản cho thiện-pháp xuất-thế-gian, nên gọi là Căn-bản thiền. Với lại, an-trú trong mười hai phẩm ấy, người tu Thiền còn ưa thích cảm-giác lạc thọ của Thiền, nên gọi là Căn-bản vị thiền.

Căn-bản tịnh thiền, phân làm hai: Lục-diệu-môn và Thập-lục-đặc-thắng. Ai có huệ tánh nhiều thì tu Lục-diệu-môn, kẻ nào có định-tánh nhiều thì tu Thập-lục-đặc-thắng. Những ai có huệ-tánh và định-tánh đều nhau thì có thể tu cả hai loại. Vì người ta có thể căn-cứ vào pháp Thiền này để phát-sinh vô-lậu-trí, không phải chỉ thuần hữu-lậu, như ở Căn-bản vị thiền, nên gọi là Căn-bản tịnh thiền.

Tuy nhiên, cả hai loại đều chỉ là thế-gian thiền mà thôi, vì trước thời Phật giáng thế, phép Thiền này đã có.

2.      Xuất-thế-gian thiền.

Pháp Thiền này là của bậc xuất-thế. Có bốn thứ Thiền-quán: Cửu-tưởng quán, Bát-bối-xả quán, Bát-thắng-xứ quán và Thập-nhất-thiết-xứ quán. Tu bốn thứ Thiền-quán này, tuy là lấy các pháp hữu-vi làm đối-tượng suy-nghiệm, nhưng có thể đi đến kết-quả ly dục, phát-sinh vô-lậu-trí, nên gọi là Xuất-thế-gian thiền.

3.      Xuất-thế-gian thượng thượng thiền.

Ðây là pháp Thiền cao tột của các bậc đại-nhân. Kinh Ðịa-Trì có giải về chín môn đại-thiền này như sau:

-          Một là “Tự-tánh thiền”, nghĩa là quán-sát thật-tướng của tự tâm, không cần lấy đối-tượng ngoại cảnh.

-          Hai là “Nhất thiết thiền”, có công-năng tự hành và hóa tha.

-          Ba là “Nan thiền”, môn Thiền gian-nan, thâm diệu, khó tu.

-          Bốn là “Nhất thiết môn thiền”, có nghĩa là tất cả các pháp Thiền-định đều do môn (cửa) này mà phát xuất.

-          Năm là “Thiện-nhân thiền”, môn Thiền của những chúng-sanh có đại-thiện-căn cùng tu.

-          Sáu là “Nhất thiết hạnh thiền”, bao nhiếp tất cả các hạnh pháp của ÐạI-thừa.

-          Bảy là “Trừ não thiền”, có năng-lực trừ diệt phiền-não, khổ-đau cho chúng-sinh.

-          Tám là “Thử thế tha thế lạc thiền”, có công-năng làm cho chúng-sinh an-lạc trong hiện-tại và tương-lai.

-          Chín là “Thanh-tịnh tịnh thiền”, có năng-lực đoạn-trừ hoàn-toàn các hoặc nghiệp, và chứng được Tịnh-báo đại Bồ-đề. Ðến môn Thiền này, tâm ý hoàn-toàn thanh-tịnh và lại cũng không còn thấy cái tướng thanh-tịnh ấy nữa, nên gọi là Tịnh-báo.


III. CÔNG-NĂNG CỦA THIỀN-ÐỊNH

Theo Bồ-tát hạnh, có thể tu-tập Thiền-định và đạt đến mười kết-quả tốt đẹp sau đây:

-          Một là được an-trụ trong pháp-thức uy-nghi. Tu Thiền-định phải theo pháp thức mà hành-trì, như vậy trải qua một thời-gian khá lâu, thì ngũ-căn được tịch-tịnh, chánh-định phát khởi, không cần có sự cố-gắng vẫn được an-trụ trong pháp-thức oai-nghi.

-          Hai là được thực-hành cảnh-giới từ-bi. Khi tu Thiền-định, thì giữ được tâm từ-bi, thương yêu chúng-sinh, muốn cho tất cả được an-ổn.

-          Ba là không còn phiền-não. Nhờ năng-lực Thiền-định mà các phiền-não tham, sân, si không còn phát-sinh nữa.

-          Bốn là gìn-giữ được các giác-quan. Không cho sắc, thanh, hương, vị, xúc lay động.

-          Năm là vui-vẻ lạc-thú. Xem Thiền-định là một món ăn ngon lành hơn tất cả các món ăn khác trong thế-gian.

-          Sáu là xa-lìa được ái-dục. Một khi tâm-niệm đã lắng yên, ái-dục không còn phát-sinh và làm nhiễm-trước được nữa.

-          Bảy là tuy chứng được chân-không, nhưng không bao giờ bị rơi vào chỗ chấp đoạn-diệt hư-vô.

-          Tám là cởi mở được tất cả những dây trói buộc sự giải-thoát.

-          Chín là khai phát được trí-huệ vô-lượng và an-trú trong cảnh-giới của chư Phật.

-          Mười là đạt đến sự giải-thoát thành-thục, đến chỗ mà tất cả các hoặc nghiệp không còn nhiễu-loạn được nữa.

 

C. KẾT-LUẬN:

Chúng ta có thể tóm-tắt thành quả tốt-đẹp của Thiền-định như sau:

Ngũ căn được tự-tại, phiền-não được dứt trừ, từ-bi được mở rộng, trí-huệ được phát chiếu, cảnh-giới giải-thoát được phô bày ra trước mắt. Một pháp-môn có công-năng quí báu, có diệu-dụng phi-thường như thế, làm sao chúng ta có thể bỏ qua được ?

Mong rằng vì những lợi-ích thiết-thực nói trên, quí vị Phật-tử hãy gắng công tu tập pháp-môn Thiền-định này cho chóng có kết-quả.

 

Ðộ thứ sáu: TRÍ-HUỆ BA-LA-MẬT

A. MỞ-ÐỀ:

Trong đạo Phật, hai tiếng vô-minh được nhắc-nhở đến luôn, vì chính vô-minh là nguồn gốc, là đầu giây mối nhợ của đau khổ, của sanh-tử luân-hồi. Phật thường dạy: “Cái khổ của lạc-đà, của lừa ngựa chở nặng mãn kiếp, cái khổ trôi lăn trong tam giới chưa gọi rằng khổ. Ngu-si không trí-huệ, tin-tưởng sai lạc, không biết hướng đi, cái ấy mới gọi là khổ”.

Ngài còn dạy một cách mạnh-mẽ, dứt khoát hơn: “Si là gốc của muôn tội lỗi, Trí-huệ là gốc của muôn hạnh lành”. Chúng ta là Phật-tử, chúng ta không muốn gây tội lỗi để phải chịu quả khổ đau, chúng ta chỉ mong làm được các hạnh lành để hưởng phước quả và được giải-thoát. Vậy tất-nhiên chúng ta phải tu huệ. Trong các môn tu huệ, thì trí-huệ Ba-la-mật là hơn cả.

 

B. CHÁNH-ÐỀ:

I. ÐỊNH NGHĨA TRÍ-HUỆ BA-LA-MẬT

Trí-huệ là gì? - “Trí” phiên-âm chữ Phạn là Phã-na; “Huệ” phiên-âm chữ Phạn là Bát-nhã. “Trí” có nghĩa là quyết đoán; “Huệ” có nghĩa là giản-trạch. Tự-điển Phật-học Trung-hoa định nghĩa như sau: “Trí là biết Tục-đế và Huệ là thông hiểu chân-đế”.

Cũng có thể nói: Trí là thể-tánh sáng-suốt trong sạch, Huệ là cái diệu-dụng xét soi tự-tại. Trí-huệ Ba-la-mật là thể-tánh sáng-suốt có khả-năng soi sáng sự vật một cách thấu-đáo tinh tường đến nơi đến chốn, không thể sai lầm được.


II. CÁC LOẠI TRÍ-HUỆ

Trí-huệ như định nghĩa trên là trí-huệ của Ðạo Phật, chứ không phải trí-huệ phổ-thông, thường dùng trong các sự học hỏi hiểu biết, suy luận hằng ngày trong đời.

Theo triết-học Phật-giáo, khả-năng nhận thức có hai loại: hiện-lượng và tỷ-lượng.

1.      Hiện-lượng: là sự nhận biết trực-tiếp không cần qua trung-gian suy-luận. Hiện-lượng lại chia làm hai:

-          Chân hiện-lượng, là nhận thức trực-tiếp mà đúng.

-          Tợ-hiện-lượng, là nhận thức trực-tiếp mà sai.

2.      Tỷ-lượng: là sự nhận-biết qua trung-gian suy-luận. Tỷ-lượng cũng có hai thứ:

-          Chân-tỷ-lượng, là lối hiểu biết bằng suy-luận đúng đắn.

-          Tợ-tỷ-lượng, là lối hiểu biết bằng suy-luận mà sai.

Hiện-lượng của địa-vị phàm-phu rất kém-cỏi và phần nhiều là tợ hiện-lượng.

Tỷ-lượng của địa-vị phàm-phu lại còn kém cỏi hơn nữa và phần nhiều là tợ-tỷ-lượng. Ðứng về phương-diện tính chất, Ðạo Phật chia trí-huệ ra làm hai loại lớn là “Căn-bản trí” và “Hậu-đắc trí”.

1.      Căn-bản trí.

Căn-bản trí, là giá-tính minh-diệu mà mỗi chúng-sinh vốn đã có sẵn, nhưng vì bị phiền-não che lấp, nên chưa phát chiếu ra được. Có thể so-sánh căn-bản trí như là một chất kim-khí quí báu (vàng, bạc) đang ở trong trạng-thái khoáng-chất, nằm lẫn lộn với đất đá (phiền-não vô-minh).

2.      Hậu-đắc trí.

Hậu-đắc trí, là trí-huệ có được nhờ công-phu tu-tập như trì-giới, thiền-định v.v… Có thể so-sánh Hậu-đắc trí như chất kim khí (vàng, bạc) được lọc từ khoáng-chất ra và không còn lẫn lộn với đất đá, bụi bặm nữa (phiền-não vô-minh).

Theo Duy-thức học, sau khi đạt đến địa-vị Giác-ngộ, nghĩa là có được “Hậu-đắc trí”, thì tám thức chuyển thành bốn trí:

-          Thức thứ tám, A-lại-da có tác-dụng và biến thành “Ðại-viên-cảnh trí” (trí sáng như bức gương lớn và tròn đầy, tượng-trưng cho biển cả chơn-như).

-          Thức thứ bảy, Mạt-na có tác-dụng là chấp-ngã, biến thành “Bình-đẳng-tánh trí” (trí có năng-lực nhận-thức tính cách bình-đẳng, vô-ngã của vạn pháp).

-          Thức thứ sáu, Ý-thức có tác-dụng là phân-biệt, biến thành “Diệu-quan-sát trí” (trí có năng-lực quan-sát thâm-diệu).

-          Năm thức cuối (nhãn-thức, nhĩ-thức, tỹ-thức, thiệt-thức, thân-thức) biến thành “Thành-sở-tác trí” (trí có năng-lực nhận thức cùng khắp và thần-diệu).


III. LÀM THẾ NÀO ÐỂ CÓ ÐƯỢC TRÍ-HUỆ

Muốn có được trí-huệ, đức Phật chế ra nhiều pháp tu. Trong số nhiều pháp tu ấy thì “Văn, Tư, Tu” và “Giới, Ðịnh, Huệ” là những pháp thường được nhắc-nhở và thực-hành nhiều nhất.

-          Văn, Tư, Tu: Văn, Tư, Tu là ba pháp tu để có được trí-huệ:

-          Văn huệ: là huệ do tai nghe âm thanh, mắt thấy văn tự của Phật, hay qua các kinh-điển mà hiểu được nghĩa lý.

-          Tư huệ: là huệ do trí suy nghĩ, tìm tòi, rõ được nghĩa lý, hiểu được sự thật.

-          Tu huệ: là huệ do tu-hành thể-nghiệm và thể-nhập chân-lý, mà giác-ngộ, chúng được sự thật.

Văn, tư, tu rất tương-quan mật-thiết với nhau, hành-giả cần phải chuyên tu cả ba thứ, không thể bỏ qua một thứ nào mà thành-tựu được. Hãy nghe Phật dạy:

“Văn huệ, tư huệ, tu huệ, ba môn khuyết một không được. Nếu nghe mà không suy-nghĩ, thì như làm ruộng mà không gieo mạ; nếu suy-nghĩ mà không tu, thì như làm ruộng mà không tát nước, bừa cỏ, rốt cuộc không có kết-quả. Ba huệ được đầy đủ thì chứng quả Tam-thừa” (Sa-Di thập giới).

-          GiớI: là lời răn dạy của Phật (xem lại bài Trì-giới Ba-la-mật).

-          Ðịnh: là thiền-định, giữ cho tâm-ý không loạn-động, để suy-nghiệm đến những vấn-đề căn-bản của Ðạo (xem lại bài Thiền-định Ba-la-mật).

-          Huệ: là sự phát chiếu của Trí, sau khi đã tẩy sạch phiền-não và vô-minh.

Giới, Ðịnh, Huệ tương-quan mật-thiết với nhau: Do trì-giới mà tâm không loạn động. Do thân-tâm không loạn động mà tâm-trí được Ðịnh. Tâm-trí khi đã định thì Trí-huệ phát chiếu.

Ngược lại, Trí-huệ phát chiếu thì tâm dễ Ðịnh, tâm đã Ðịnh thì Trì-giớI không khó khăn.

Tóm lại, giới, định, huệ, đều tương-duyên tương-quan mật-thiết với nhau, một cái tăng thì hai cái kia cùng tăng, một cái giảm thì hai cái kia cùng giảm.


IV. CÔNG-NĂNG CỦA TRÍ-HUỆ

Như chúng ta đã thấy trong phần chia loại, trí-huệ khi đã đạt đến địa-vị Giác-ngộ (tám thức chuyển thành bốn trí) thì công-năng, diệu-dụng của nó rộng lớn vô cùng, không thể nói hết. Tuy thế, đã có một quan-niệm tương-đốI rõ ràng, chúng ta có thể nêu lên ba công-năng chính của trí-huệ như sau:

1.      Dứt trừ phiền-não: Phiền-não là do mê-lầm phát-sinh. Khi trí-huệ đã có thì mê-lầm phải mất, như khi ánh-sáng phát ra thì bóng tối tất phải tan biến. Mê-lầm đã mất thì phiền-nào tất không còn phát-sinh nữa.

2.      Chiếu sáng sự vật: Sự vật bị vô-minh che khuất, như màn sương sớm che phủ cảnh vật, nay trí-huệ phát chiếu vào sự vật, chẳng khác gì khi ánh-sáng mặt trờI lên, thì màn sương ắt phải tan biến, lúc bấy giờ thực-tướng, thực-tánh của sự vật được lộ bày như thật.

    Thể nhập chân-lý: Khi bị vô-minh phủ lấp, ngăn-che thì ta với người, ta với vật tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí-huệ soi sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn-không, nên thể-nhập được chân-lý, giác-ngộ hoàn-toàn.


C. KẾT-LUẬN:

Giá-trị và công-năng của trí-huệ lớn-lao không thể nói hết. Nó là cứu-cánh của người Phật-tử. Cứu-cánh ấy, chúng ta phải cố đạt cho được.

Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phật cũng đã thiết-tha khuyên các đệ-tử, phải trau-dồi trí-huệ như sau:

“Trí-huệ là chiếc thuyền kiên-cố chở khỏi biển già, đau, chết; là ngọn đèn lớn chói sáng vô-minh hắc-ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gẫy cây phiền-não. Vậy các ngườI phải lấy sự nghe, sự suy-nghĩ, sự tu-tập mà tự tăng ích cho trí-huệ mình”. (Kinh Di-Giáo).

Những lời nhắn nhủ thống-thiết của đức Bổn-sư, chúng ta không thể không ghi nhớ và thực-hành được. Vả chăng, trong sáu độ Ba-la-mật mà chúng ta đã học trong ba bài kế tiếp này, mục-đích cũng chỉ để dẫn đến độ thứ sáu là Trí-huệ, cái mức độ cuối cùng của đạo Giác-ngộ và giải-thoát.

Cầu mong tất cả quý vị Phật-tử có được trí-huệ để tự độ và độ tha đến bên kia bờ giải-thoát.


TỔNG-KẾT VỀ LỤC BA-LA-MẬT

Ðạo Phật là đạo từ-bi, mà cũng là đạo giác-ngộ. Từ-bi thuộc về phước, giác-ngộ thuộc về huệ. Phước và Huệ là hai cánh làm cho con chim đại-bàn là hành-giả bay thẳng đến bờ giải-thoát. Do đó, trong kinh thường nói: “Phước, Huệ song tu mới thành ngôi Chánh-giác”. Trong sáu pháp Ba-la-mật, bố-thí và nhẫn-nhục thuộc về tu phước; thiền-định và trí-huệ thuộc về tu huệ; còn trì-giới và tinh-tấn là hai chất-liệu có công-dụng kiểm-soát và đốc-thức cho việc tu phước và huệ được thành-tựu hoàn-toàn.

Nếu chúng ta đem so sánh một cách mộc-mạc và đơn-giản sáu pháp Ba-la-mật với chiếc thuyền Bát-nhã đưa người từ bờ mê đến bến giác, thì: Từ-bi là thức ăn; nhẫn-nhục là nước uống, tinh-tấn là cánh buồm và chèo, trì-giới là bánh lái, thiền-định là la-bàn và trí-huệ là đèn đuốc. Sáu thứ ấy đều cần thiết cho người thủy-thủ là hành-giả, thiếu một thứ, người thủy-thủ sẽ gặp khó khăn trong công cuộc hành-trình vạn dặm của mình.

Ðứng về một khía cạnh khác để nhận xét giá-trị của lục-độ, chúng ta sẽ thấy như thế này: Bố-thí và nhẫn-nhục thuộc về Bi, thiền-định và trí-huệ thuộc về Trí, còn giới và tinh-tấn thuộc về Dũng. Một Phật-tử hoàn-toàn phải có đủ ba phương-diện Bi, Trí, Dũng mới mong đi đến bờ giác-ngộ một cách thông suốt và nhanh chóng.

Vậy trông mong quý vị Phật-tử tại-gia cũng như xuất-gia, trong khi học và hành sáu pháp Ba-la-mật, đừng nên xem thường một pháp nào. Có như thế mới đủ phương-tiện và năng-lực để tự-độ và độ-tha, đến nơi cùng tột và đúng với ý nghĩa Ba-la-mật.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ IV )
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712