Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Quán Giới Phân Biệt

QUÁN GIỚI-PHÂN-BIỆT 

A.  MỞ-ÐỀ: 

            Hầu hết người đời đều tin rằng, mỗi người từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến chết và cả sau khi chết nữa, đều có một linh-hồn duy nhứt, bất biến làm chủ tất cả ý nghĩ, hành-động của mình.  Nói theo thuật-ngữ Phật-giáo thì tin như thế gọi là “ngã chấp”, nghĩa là tin có một cái Ngã riêng biệt, tồn tại bất biến…  Từ cái ngã chấp ấy, mà sinh ra “ngã ái”, nghĩa là yêu thương, chăm sóc, gìn giữ cái ngã, bất chấp phải trái, hay dở; đẹp hơn bao nhiêu “cái ta” khác, đối lập với tất cả những gì không phải là ta hay trái ý với ta. 

            Do sự chấp ngã ấy mà cuộc sống đáng lẽ phải rộng-rãi vô biên, trường tồn bất diệt, lại bị ngăn cách chia xẻ, giam hảm trong những cái vỏ cứng là “cái ta” riêng biệt; và người đời, hay nói rộng hơn, tất cả chúng-sinh đều phải sống, chết, quay cuồn, điêu đứng, khổ đau vì “cái ta” riêng biệt mà họ tưởng lầm là thuần nhất, bất biến ấy. 

            Nhưng thật ra, có một cái “ta” như thế không?  Nếu có, thì cái Ta ấy ở đâu?  Trong sáu căn hay trong sáu trần, hay trong sáu thức?  Muốn hiểu rõ vấn đề này một cách tường tận, chúng ta phải quán Giới-phân-biệt là một trong Ngũ-đình-tâm-quán. 

B.  CHÁNH-ÐỀ: 

I.  ÐỊNH NGHĨA 

            Quán Giới-phân-biệt: Giới có nghĩa là giới-hạn, là phạm-vi chia phần này với phần khác, bộ-phận này với bộ-phận khác.  Chẳng hạn như trong vật-chất, người ta phân chia ra nhiều loại: loại màu sắc, loại âm thanh, loại mùi v.v…  Hay trong con người, các bộ phận tiếp xúc với ngoại cảnh, như mắt, tai, mũi, lưỡi… là những Giới riêng biệt. 

            Trong thế-giới Ta-bà gồm những vật hữu-hình và vô-hình này, mặc dù có thiên hình vạn trạng, nhưng theo triết-lý của đạo Phật, thì có thể chia ra làm mười tám giới (loại, phạm-vi).  Vận dụng trí-huệ để quán sát, nhận định từng phạm-vi, từng giới một trong mười tám giới ấy, để xét xem thử có một cái ngã trường tồn, bất biến, duy nhứt hay không, đó tức là quán Giới-phân-biệt. 

II.  PHÂN GIẢI MƯỜI TÁM GIỚI 

            Mười tám giới có thể phân ra ba loại lớn: sáu căn, sáu trần và sáu thức. 

            1.  Sáu căn. 

            Căn tức là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẩy nở, phát sinh.  Sáu căn ở đây tức là: nhãn-căn, nhĩ-căn, tỹ-căn, thiệt-căn, thân-căn và ý căn. 

            a)  Nhãn-căn: tức là hai con mắt, bộ phận để làm chỗ nương-tựa cho sự nhận thấy của người được rõ-ràng, khi tiếp xúc với cảnh vật chung quanh. 

            b)  Nhĩ-căn: tức là hai lỗ tai, bộ phận làm chỗ phát sinh cho sự nghe biết của người được rõ-ràng, khi tiếp xúc với tiếng động ở chung quanh. 

            c)  Tỹ-căn: tức là lỗ mũi, bộ phận làm chỗ nương tựa cho sự ngửi biết của người được xác thực, khi tiếp xúc với các mùi như thơm thúi… ở chung quanh. 

            d)  Thiệt-căn: tức là cái lưỡi, bộ phận làm chỗ nương tựa của sự nếm biết của người được rõ-ràng khi tiếp xúc với các chất như chua, ngọt, mặn v.v… ở ngoại cảnh. 

            đ)  Thân-căn: tức là da bao-bọc thân người, bộ phận làm cho nhận biết được cảm-giác nóng, lạnh, cứng, mềm của các vật chung quanh. 

            Năm căn này là năm bộ-phận thuộc về thể-chất nằm ở bên ngoài, dễ tiếp-xúc với ngoại vật.  Chúng có hình tướng do tứ đại hợp thành, có thể thấy được, chỉ được, rờ mó được.  Duy-thức học liệt chúng về nội-căn sắc-pháp.  Nội-căn sắc-pháp này có thể phân-tách ra làm hai phần; phù-trần-căn và tịnh-sắc-căn.  Phù-trần-căn là chỉ cho hình tướng thô-phù hiện ra bên ngoài, như tròng mắt, vành tai, lưỡi đỏ v.v… Còn tịnh-sắc-căn là chỉ cho phần ẩn-phục của năm căn, tức là phần ứng dụng, phần hoạt-động, phần sống của năm căn.  Nói một cách rõ-ràng đơn-giản hơn, tức là những giây thần-kinh-hệ của con người vậy.  Phù-trần thì thô-thiển, tịnh-sắc lại tế-ẩn.  Nếu hai phần này rời nhau, năm căn sẽ thành vô dụng. 

            e)  Ý-căn: tức là bộ phận để cho sự phân-biệt phát sinh, tức là thức thứ Bảy.  Phần này rất tinh-tế thuộc về tinh-thần.  Cho nên không có hình-sắc như năm căn trước. 

            2.  Sáu trần. 

            Trần nghĩa đen là bụi.  Bụi thì nhơ-nhớp luôn luôn dời đổi lăn-xăn tụ tán không chừng.  Nghĩa bóng, trần tức là chỉ cho phần vật-chất, cảnh vật chung-quanh con người.  Sáu trần là: sắc-trần, thanh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần và pháp-trần. 

            a)  Sắc-trần: là màu sắc, đường nét hình dáng, những gì mà mắt có thể thấy được. 

            b)  Thanh-trần: là tiếng do vật hữu hình hay vô hình phát ra, nghĩa là những tiếng mà tai nghe được. 

            c)  Hương-trần: là mùi do vật hữu tình hay vô hình bốc lên, tỏa ra, vật mà mũi ngửi được. 

            d)  Vị-trần: là chất vị trong vật hữu tình hay vô tình, vật mà lưỡi nếm được. 

            đ)  Xúc-trần: là những thứ mềm, cứng, trơn, nhám… của vật hữu tình hay vô tình, những vật mà thân tiếp-xúc được. 

            e)  Pháp-trần: là những hình ảnh, màu sắc, hương vị… trừu-tượng của năm trần lưu lại sau khi đã bị năm căn duyên, chính là cảnh bị duyên của ý-căn.  Màu sắc, tiếng tăm, hương vị ở đây không phải là vật thật của ngoại-cảnh mà chỉ là những hình, bóng, âm vang… của ngoại-cảnh sau khi đã lọc qua năm giác-quan, và đang bị ý căn duyên. 

            Chúng ta có thể làm một thí dụ thô thiển sau đây cho dễ hiểu: 

            -  Sắc-trần dụ như cảnh vật bên ngoài.

            -  Nhãn-căn dụ như cái máy quay phim.

            -  Pháp-trần dụ như những hình ảnh đã giữ được trong cuốn phim.

            -  Ý-căn dụ như người xem hình trong cuốn phim chiếu lên.           

            Có thể làm một thí dụ thứ hai sau đây: 

-         Thanh-trần dụ như các tiếng hát của một ca-sĩ.

-         Nhĩ-căn dụ như cái máy ghi âm.

-         Pháp-trần dụ như cuốn băng nhựa đã ghi âm.

-         Ý-căn dụ như người nghe tiếng do cái máy phát ra. 

            3.  Sáu thức. 

            Thức là sự phân-biệt, hiểu-biết, phán-đoán do sáu căn tiếp-xúc với sáu trần mà phát sinh.  Nó thuộc về tâm-pháp (vô hình).  Sáu thức là: nhãn-thức, nhĩ-thức, tỹ-thức, thiệt-thức, thân-thức và ý-thức. 

            a)  Nhãn-thức là sự phân-biệt, hiểu-biết do nhãn-căn tiếp-xúc với sắc-trần mà phát sinh. 

            b)  Nhĩ-thức là sự phân-biệt, hiểu-biết do nhĩ-căn tiếp-xúc với thanh-trần mà phát sinh. 

            c)  Tỹ-thức là sự phân-biệt, hiểu-biết do tỹ-căn tiếp-xúc với hương-trần mà phát sinh. 

            d)  Thiệt-thức là sự phân-biệt do thiệt-căn tiếp-xúc với vị-trần mà phát sinh.

            đ)  Thân-thức là sự phân-biệt, hiểu-biết do thân-căn tiếp-xúc với xúc-trần mà phát sinh. 

            e)  Ý-thức là sự phân-biệt, hiểu-biết, phê phán do ý-căn tiếp-xúc với pháp-trần mà phát sinh. 

            Chúng ta có thể làm một thí dụ cụ-thể sau đây cho dễ nhận: 

            Sáu thức như một hội-đồng giám-khảo của cuộc thi về văn-nghệ, nữ-công và gia-chánh.  Hội-đồng này gồm có sáu người: Một ông chủ-tịch và năm hội-viên chuyên-môn về năm ngành: 

-         Một người chuyên về màu-sắc và hình-ảnh.

-         Một người chuyên về âm-thanh.

-         Một người chuyên về mùi hương.

-         Một người chuyên về chất-vị.

-         Một người chuyên về xúc-giác. 

Năm hội-viên này sau khi lấy khả-năng chuyên-môn của mình ra phân-tách, phê-phán rồi, liền trình sự nhận-xét của mình lên ông chủ-tịch, ông này thu góp tất cả những nhận-xét của năm hội-viên, làm tổng-kết và tuyên-bố kết-quả của cuộc thi ấy.  Ông chủ-tịch này chính là ý-thức hay là thức thứ sáu. 

III.  PHƯƠNG-PHÁP QUÁN 

            Sau khi chúng ta đã biết được rõ-ràng phạm-vi và công-năng của mỗi giới trong mười tám giới rồi, đến đây, chúng ta có thể bắt đầu tập phương-pháp quán.  Pháp quán này gồm có hai phần:  Quán-sát sự liên-hệ giữa căn, trần và thức; và quán-sát sự giả-dối của căn, trần và thức. 

            1.  Quán-sát sự liên-hệ giữa căn, trần và thức. 

            Vẫn biết căn là nội-sắc, trần là ngoại-sắc, hai thứ riêng-biệt nhau, nhưng chúng rất quan-hệ mật-thiết.  Căn là phần chủ-động, có khả-năng duyên được với trần, còn trần là phần bị-động “được duyên” với căn.  Nhờ có căn phù-trần và tịnh-sắc, nên con người mới có thể nhận biết các cảnh-vật chung-quanh trong sự sống hằng ngày. 

            Nếu không có căn, dĩ-nhiên không có thức, thì con người không phải là con ngưòi.  Họ không tác-sáng, xây-dựng, cải-cách, tiến-hóa, và thế-giới này phải là thế-giới “chết”, mờ-mịt không có ý-nghĩa. 

            Nếu không có trần, con người cũng không sống nổi.  Ngoại-cảnh là trường hoạt-động của con người.  Nó dạy khôn dạy khéo cho con người trong cuộc sinh-hoạt và làm cho con người có ý-thức về cuộc sống của mình. 

            Thức lại tác-động vào căn và trần làm cho cuộc sống càng thêm tiến-bộ, sung-túc, thịnh-vượng. 

            Ba thứ này ảnh-hưởng lẫn nhau như cây quẹt, chất điện và đốm lửa.  Sự liên-quan này chứng-minh một cách hùng-hồn sự không độc-lập của sắc-pháp và tâm-pháp, cả về phương-diện cá-thể lẫn phương-diện tổng-thể. 

            Mười tám giới này, như đoạn đầu đã nói, gồm cả thế-giới và nhân-sinh, cả vật vô-tình và vật hữu-tình.  Một khi chúng đã không tự-lập, thì trong vũ-trụ này, không có một vật gì, kể cả con người, cả cái ngã, do chúng cấu-tạo ra lại có thể biệt-lập, thuần nhất được.           

            2.  Quán-sát sự giả-dối của căn, trần và thức.           

            Phần trên, chúng ta thấy cái ngã không thể do sự tổng-hợp của căn, trần và thức mà có được một cách thuần nhứt.  Ðến đây, chúng ta sẽ đi sâu vào một tầng nữa, quán-sát xem cái ngã có thể có trong một phần nào của căn, trần và thức chăng. 

            a)  Sáu căn là ngã chăng?  Trước tiên, chúng ta hãy xét bản-chất của sáu căn là gì?  Chính là một khối xương da máu thịt, hợp có trật-tự, có tổ-chức, chứ không gì khác.  Mà đã là thịt da, xương máu thì không có gì là bền-bỉ, thuần-nhất.  Từ “khi trắng răng đến thuở bạc đầu”, thử xem con người đã mấy lần thay-đổi.  Và sau một trăm năm, thử hỏi thể-xác ấy sẽ còn lại gì, ngoài “nắm cỏ khâu xanh rì” ? 

            Giả-sử có một cái ngã ở sáu căn, thì thử hỏi: 

-  Nếu cái ngã ở nơi mắt, thì năm căn kia không phải là ngã.  Nếu cái ngã ở nơi tai, thì năm căn kia không phải là ngã.  Lần lượt xét cả sáu căn, chúng ta không thể nói được cái ngã ở một phần nào trong sáu căn. 

-  Nếu cho rằng sáu căn đều là ngã, thì thành ra con người có đến sáu cái ngã.  Nói thế chắc không ai công-nhận được. 

            -  Còn nếu bảo rằng:  Do sáu căn hòa-hợp mà có cái ngã, thì trái với định-nghĩa về cái ngã, là thuần-nhất, bất-biến.  Vả lại, khi đã cho rằng cái ngã do nhiều thứ hợp lại, thì cũng phải công-nhận luôn rằng cái ngã ấy là không thật, là giả-hợp. 

            Do đó, Duy-thức học bảo “nhân vô ngã”. 

            b)  Sáu trần là ngã chăng?  Trần với căn không khác gì mấy.  Căn đã không tự-tại trong cuộc sinh-tồn, thì trần làm sao đứng vững, còn hoài. 

            Giả-sử, “ngã” nằm trong sắc, thì trên thế-giới này phải không có sự đổi trắng, thay đen.  Nhưng hoa nở rồi tàn, hết ngày rồi đêm, bãi bể biến thành vườn dâu, cuộc đổi thay đã bày rành rành ra trước mắt. 

            Vậy “ngã” nằm trong thanh chăng?  Cũng không có lý.  Thanh không bao giờ tự-nhiên mà có.  Nếu nó không do vật hữu-tình phát ra, thì cũng do sự va-chạm của những vật vô-tình mà có.  Như thế, thanh rõ-ràng là một pháp hữu-vi, có tạo tác.  Mà đã là hữu-vi, thì thế nào cũng vô-thường.  Vả lại, vật sinh ra nó là sắc kia đã là vô-ngã, vô-thường, thì nó không thể nào là thường, là ngã được. 

            Cho đến hương, vị, xúc, pháp cũng đều là vô thường, vô ngã như sắc, thanh cả.  Chúng chỉ là như những làn gió thoảng qua, những màn sương phảng phất, đã vô hình lại bất định, nên sự vô ngã của chúng lại càng rõ rệt hơn sắc, thanh nhiều. 

            c)  Sáu thức là ngã chăng?  Như đoạn trên đã nói, thức là sự nhận biết do căn và trần đối nhau mà có.  Ðiều ấy đã chứng minh rằng thức không thật có.  Nói một cách đơn-giản thì thức là do căn và trần đối nhau mà thành, nhưng nếu chia chẽ một cách rốt-ráo theo duy-thức học, thì thức sở-dĩ có được còn là nhờ nhiều nhân-duyên khác nữa.  Chẳng hạn như nhãn-thức, sanh khởi được là nhờ chín duyên sau đây: 

-         Không: là khoảng trống không, cách biệt giữa căn và cảnh vật.

-         Minh: là ánh-sáng soi chiếu bởi mặt trời, trăng, sao, hay đèn đóm.

-         Căn: là chỗ nương tựa của thức.

-         Cảnh: là các sự vật mà căn duyên được.

-         Tác-ý: là sự mong muốn được thấy.

-         Phân-biệt-y: là chỗ nương để phân-biệt, tức là ý-thức, hay thức thứ sáu.

-         Nhiễm-tịnh-y: là thức thứ bảy hay là tiềm-thức.

-         Căn-bản-y: là thức thứ tám.

-         Chủng-tử: bản-năng sẽ được phát sinh. 

Ðể có một ý niệm rõ-ràng hơn về nhãn-thức, chúng tôi xin giảng giải chín duyên trên ra như sau: 

Khi mắt ta thấy một vật gì, nó phải ở cách vật ấy gần hay xa (không), khi thấy phải là ban ngày, hay ban đêm có trăng, sao, hoặc đèn (minh).  Sự thấy ấy dĩ-nhiên là phải từ con mắt mà có (căn) và đồng thời, lúc đó phải có vật gì mới thành sự thấy (cảnh).  Trước lúc thấy, ta đã có ý muốn ngó rồi (tác-ý).  Tác-ý đây lại do ý-thức đã khởi động trước (phân-biệt-y).  Ý-thức lại phải nương thức thứ bảy, vì là căn của nó (nhiễm-tịnh-y).  Thức thứ bảy lại luôn luôn và chấp thức thứ tám là ngã (căn-bản-y).  Thức này lại là nơi dung chứa các thức chủng-tử.  Chủng-tử là cái nhơn chánh để có ra sự vật. 

Xét từ trong đến ngoài, từ duyên đầu đến duyên chót, nhãn-thức đã không có mảy may gì là chơn thật cả.  Các thức kia như nhĩ-thức, tỹ-thức, thiệt-thức cũng như vậy cả, nhưng ít duyên hơn, như nhĩ-thức thì chỉ có tám duyên (vì không có Minh: nghe không cần có ánh sáng).  Còn tỹ, thiệt và thân-thức, thì chỉ bảy duyên (vì không cần có Minh và Không).  Ý-thức thì chỉ có năm duyên, là: căn, cảnh, tác-ý, căn-bản-y, chủng-tử. 

Xem thế thì đủ rõ sáu thức đều là không thật, nghĩa là cũng vô ngã như sáu căn và sáu trần. 

Tóm lại, từ căn-thân cho đến thế-giới, gồm trong mười tám giới, đều không thật có, không thật ngã.  Hành tướng do nhân-duyên hòa-hợp thì có, nhưng thật-thể thì hoàn-toàn không. 

IV.  HIỆU QUẢ CỦA PHÁP QUÁN GIỚI-PHÂN-BIỆT 

            Pháp quán giới-phân-biệt có công-năng phá tan cái ngã không còn manh giáp.  Cái ngã đã bị tấn-công đủ mọi mặt, từ ngoài vào cho đến tận sào huyệt, và cuối cùng, bị phân tán, chia xẻ, phanh phui cho đến mảy mún.  Từ trước đến nay, cái ngã-chấp sở-dĩ hoành hành được là nhờ núp trong bóng tối của si-mê.  Từ nay pháp quán giới-phân-biệt như là một ngọn đèn pha chiếu sáng cả vòm trời u-tối, làm cho cái hình bóng giả-dối là cái ngã cũng tan biến như mây khói.  Ngã-chấp đã không còn, thì ngã-ái, ngã-mạn cũng không biết nương tựa vào đâu để tồn tại.  Nói một cách khác, phiền-não, ác nghiệp, khổ đau, do ngã-chấp mà sanh.  Nay ngã-chấp đã bị diệt, thì phiền-não khổ đau cũng sẽ hết.  Phiền-não, khổ hết thì an vui, tự-tại tức thời hiện ra.  Ðó là cái kết quả chắc thật đầu tiên của pháp quán giới-phân-biệt.

            Rồi từ sự an vui, tự-tại tương đối ấy, hành-giả sẽ cố gắng tiến dần trên đường đạo.  Càng tiến, hành-giả càng sáng suốt thêm, càng nhận rõ thêm chân-lý.  Hành-giả sẽ dần dần chứng được các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.  Nhưng hành-giả cũng không dừng lại ở các quả-vị ấy.  Hành-giả không cố-chấp ở quả-vị đã chứng được của mình, do đó sẽ giải-thoát được tam-giới, làm bực Thanh-văn, Duyên-giác. 

            Nếu hành-giả cố gắng tu thêm, đến khi không còn chấp trước các pháp mình tu, mà chỉ coi đó như là ngón tay chỉ mặt trăng, như liều thuốc trị bệnh, chỉ cần trong lúc đau, nếu cố gắng tu được như thế, thì hành-giả sẽ đến bực “vô trí, vô đắc”, tức là chứng được đạo quả vô-thượng Bồ-đề. 

C.  KẾT-LUẬN: 

            Chúng ta đã thấy rõ công-năng, diệu-dụng và hiệu-quả tốt đẹp của pháp quán giới-phân-biệt.  Nhưng thấy được, mặc dù đã là quý, mà làm được mới thật là quý hơn.  Trong đoạn trên, chúng tôi đã hai ba lần nhấn mạnh ở những chữ “nếu cố gắng…”.  Thật thế, “nếu” không “cố gắng” thì đâu sẽ hoàn đó, và cái ngã, mặc dù giả dối, vẫn còn tồn tại mãnh liệt và tác oai, tác quái như thường.  Cái ngã chấp được tạo dựng và củng-cố từ muôn ngàn kiếp, mỗi khi mỗi ít, nhưng lâu ngày trở thành rắn-chắc, như những vỏ ngêu, vỏ ốc bám vào mỏm đá.  Ngày nay chúng ta được may-mắn đức Bổn-sư chỉ bày pháp quán giới-phân-biệt, để cho chúng ta thấy được cái giả-tướng của nó.  Nhưng đâu phải chỉ quán năm bảy lần, hay vài ba chục lần là thành-tựu?  Cái ngã được bồi đắp lâu đời lâu kiếp, thì công-phu tu luyện để phá trừ nó cũng cần phải nhiều thời gian, qua nhiều giai-đoạn.  Lý-trí có thể chấp nhận dễ-dàng không có thật ngã, nhưng tình-cảm đâu có chấp nhận dễ-dàng như thế?  Từ trước đến nay ta đang tin-tưởng quí chuộng, cưng dưỡng cái ngã, bỗng hôm nay có người bảo rằng nó không có, nó không thật, thì thế nào tình-cảm cũng nổi dậy phản-đối, bịt tai không muốn nghe, bịt mắt không muốn thấy.  Ta phải cần nhiều kiên-nhẫn lắm, may ra mới thuyết-phục được tình-cảm.  Nhưng trận giặc chiến-đấu với cái ngã, đến giai-đoạn này, đâu phải đã chấm dứt?  Cái ngã chưa đầu hàng mà lui vào sào-huyệt sâu kín nhất, vào “mật-khu” nguy-hiểm nhất.  Sự chấp-ngã ở đây có một hình-thức toàn-diện, vô cùng bén nhạy, đàn bà đến con nít, là một chiến-sĩ; và mỗi khoảng đất, mỗi chiến-đấu chống cái ngã.  Sự chấp ngã của tiềm-thức hay vô-thức diễn ra trong mỗi cử chỉ mỗi hành-động, trong khi thức cũng như trong khi ngủ, trong khi lành mạnh cũng như trong khi mê sản, trong khi sống cũng như trong khi chết (theo thần-thức và đi đầu thai).  Lực lượng của địch (chấp ngã) mạnh-mẽ và hùng-hậu như thế đấy.  Chúng ta cần phải hiểu rõ trước khi chiến-đấu.  Biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng. 

            Chúng ta không bao giờ được pháp khinh địch.  Phải chuẩn bị đầy đủ trước khi chiến-đấu.  Và trong khi chiến-đấu phải quyết tâm và kiên-nhẫn.  Với hai điều kiện căn-bản ấy, chắc chắn hành-giả sẽ thành-công trong cuộc chiến-đấu, dẹp tan cái ngã là tên giặc nguy-hiểm nhất trong mỗi chúng ta, và cầm đầu các tên giặc khác là: tham, sân, si.  Trừ được tên đầu-đảng này là hành-giả đã hoàn-toàn thành-công trong trận giặc chống phiền-não, khổ đau và bắt đầu bước lên đài giải-thoát.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ IV )
LỤC ÐỘ
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712