Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Quán Nhân Duyên

QUÁN NHÂN-DUYÊN 

A.      MỞ-ÐỀ: 

Người đời, vì không hiểu sự vật trong vũ-trụ này từ đâu mà có, cho nên sanh ra nhiều quan-niệm sai lầm.  Có người nghĩ rằng vũ-trụ do tự-nhiên sanh.  Có người lại nghĩ vũ-trụ do một vị hay nhiều vị thần toàn trí, toàn năng tạo ra v.v…

Theo đạo Phật thì vũ-trụ là vô-thỉ, nghĩa là không có điểm khởi đầu, và mọi sự vật trong vũ-trụ không thể đứng riêng một mình mà có được; trái lại, phải nương nhờ nhau mà thành.  Nói một cách khác, từ vật lớn cho đến vật nhỏ, từ vật hữu-hình cho đến vô-hình, đều không ngoài nhân-duyên mà cớ.  Vì thế, trong kinh Phật thường nói: “Chư pháp tùng duyên sinh”. 

Sự hiện hữu của loài hữu-tình, hay nói riêng của loài người, cũng không ngoài công lệ ấy được.  Muốn hiểu rõ một cách tường-tận cái guồng máy của sự sanh-tử luân-hồi của kiếp người trong bể khổ trần-gian, chúng ta cần phải học lý “thập nhị nhân-duyên”.  Sau khi hiểu rõ lý thập nhị-nhân-duyên, chúng ta lại còn phải tìm hiểu phương-pháp để dứt trừ cái vòng lẩn-quẩn sanh-tử luân-hồi nữa. 

Muốn hiểu và dứt trừ cái vòng sanh-tử luân-hồi, chúng ta phải học và thực-hành pháp quán nhân-duyên, mà chúng tôi xin trình bày trong bài giảng này. 

B.       CHÁNH-ÐỀ: 

I.  ÐỊNH-NGHĨA 

            Sao gọi là “nhân-duyên”?  Nhân là nguyên-nhân, chỉ cho những vật chính nó làm nhân, trực-tiếp sanh ra một vật khác, như hạt lúa làm nhân sanh ra cây lúa.  Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật gì có tánh cách trợ giúp trực-tiếp hay gián-tiếp cho vật khác được thành.  Như phân, nước, ánh sáng, nhân công… là trợ-duyên giúp cho hạt lúa được thành cây lúa.  Vậy nhân-duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó mà cũng vừa là trợ duyên cho tất cả vật chung quanh nó. 

            Chữ “nhân-duyên” lại có nghĩa thứ hai: Các vật đều là “nhân”, các “nhân” đó “duyên” với nhau mà thành ra các vật khác.  Như vôi, gạch, ngói, gỗ v.v… là nhân, các nhân này duyên nhau (nương giúp) mà thành ra cái nhà.  Vì các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho nhau, mà thành ra vật thế này hay thế khác, nên trong kinh chép: “chư pháp trùng trùng duyên khởi”. 

II.  THÀNH-PHẦN CỦA NHÂN-DUYÊN 

            Ðoạn trên đã nói: “Các pháp do nhân-duyên hòa-hợp sanh”.  Vậy những nhân-duyên gì sanh ra loài hữu-tình?  Ðó là mười hai nhân-duyên sau đây: 

            1.  Vô-minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh-sắc, 5. Lục-nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12 Lão-tử. 

            1.  Vô-minh có nhiều nghĩa và nhiều loại. 

            a)  Theo Ðại-thừa giải-thích: “Không tỏ ngộ chân tâm gọi là vô-minh” (Bất giác-đệ nhất nghĩa đế, vị chi vô-minh).

            b)  Thông cả Ðại-thừa và Tiểu-thừa giải-thích: “Hiểu biết các pháp không đúng như thật (hiểu sai lầm), nên gọi là vô-minh” (Bất như thật tri chư đế lý, vị chi vô-minh), như vô-ngã mà chấp thật ngã, vô-pháp mà chất thật pháp v.v… 

            c)  Ngoài ra, còn những nghĩa thông thường như: vô-minh là không sáng, tối-tăm, mờ-ám, si-mê v.v… 

            Vô-minh, lại có khi để chỉ cho các phiền-não như tham, sân, si…  Xưa có người đến chùa hỏi: 

-         Thế nào là vô-minh? 

Tổ-sư trả lời: 

-         Quê mùa, dốt nát đến thế, cũng đến chùa hỏi đạo-lý! 

Ông khách nổi giận, mặt mày đỏ bừng… Tổ-sư nói tiếp: 

-         Vô-minh là đó (chỉ cái sân), đó là vô-minh. 

Vô-minh có khi chỉ riêng cho si-tâm-sở.  Như nói “độc-hành vô-minh” hay “tương ưng vô-minh” là đều chỉ riêng cho “si-tâm-sở”:  Khi nó khởi riêng một mình, hoặc chung cùng với các phiền-não, tham, sân, si v.v… 

Vô-minh lại phân ra hai loại: căn-bản vô-minh và chi-mạt vô-minh.  Như trong mười hai nhân-duyên, cái “vô-minh” đầu là căn-bản, vì nó làm gốc sanh ra các vô-minh sau; còn “ái, thủ, hữu” là chi-mạt vô-minh.  Trong tứ hoặc, thì kiến-hoặc, tư-hoặc, trần-sa-hoặc là chi-mạt vô-minh; còn vô-minh-hoặc là căn-bản vô-minh.  Trong ngũ-trụ-địa, thì kiến-nhất-xứ trụ-địa, dục ái-trụ-địa, sắc ái-trụ-địa và hữu ái-trụ-địa là chi-mạt vô-minh; còn vô-minh trụ-địa là căn-bản vô-minh. 

Nói chung lại, tất cả phiền-não, hoặc thô, hoặc tế của Ðại-thừa hay Tiểu-thừa, có tánh cách làm cho chân-tâm bị ẩn, gương trí-huệ lu mờ thì gọi là vô-minh. 

            2.  Hành là hành-động, tạo-tác.  Do vô-minh phiền-não nổi lên, làm cho thân, khẩu, ý tạo-tác ra các nghiệp lành hay dữ, nên gọi là “hành”.           

            3.  Thức là thần-thức, chỉ cho phần tinh-thần.  Do thân, khẩu, ý, ba nghiệp tạo-tác những nghiệp lành hay dữ, nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn-dắt thần-thức đi lãnh thọ quả báo (thân) khổ hay vui ở đời sau.           

            4.  Danh-sắc là thân-thể.  Trong thân-thể người có hai phần:

            a)  Phần tinh-thần (tâm) chỉ có tên kêu gọi, chứ không có hình sắc nên gọi là “danh”. 

            b)  Phần thể-chất có hình sắc, nên gọi là “sắc”. 

            5.  Lục nhập gọi nôm-na là sáu chỗ vào.  Khi đã có thân-thể rồi, cố nhiên phải có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) là chỗ của sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp) phản ảnh vào, nên gọi là “lục nhập”           

            6.  Xúc là tiếp-xúc.  Trong sáu căn, ngoài sáu trần thường gặp-gỡ tiếp-xúc với nhau, như mắt tiếp-xúc với sắc, tai tiếp-xúc với tiếng, mũi tiếp-xúc với mùi, lưỡi tiếp-xúc với vị, thân tiếp-xúc với ấm lạnh, trơn nhám, ý tiếp-xúc với pháp-trần.           

            7.  Thọ là lãnh thọ.  Khi sáu căn tiếp-xúc với sáu trần, rồi lãnh thọ những cảnh vui buồn, sướng hay khổ, hay cảnh bình-thường. 

            8.  Ái là ưa muốn.  Khi lãnh thọ cảnh vui thì sanh lòng tham, muốn làm sao cho được, khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận, buốn rầu, muốn xa-lìa, gặp cảnh bình-thường thời si-mê.  Ðây là cái động-cơ thúc đẩy thân, khẩu, ý tạo-tác các nghiệp. 

            9.  Thủ là giữ lấy, tìm cầu; nói rộng ra là các hành-động tạo-tác.  Do gặp cảnh thuận thì tham cầu, gặp cảnh nghịch lại sân, si muốn xa lìa; mục-đích là cố tìm phương này kế nọ để bảo thủ cho được bản ngã của mình.  Do đó mà tạo ra các nghiệp sanh-tử. 

            10.  Hữu là có.  Vì đời này có nhân lành hay dữ do mình tạo ra, thì đời sau quyết-định phải “có” quả khổ hay vui do mình phải thọ nhận. 

            11.  Sanh là sanh ra.  Do “ái, thủ, hữu” làm nhân hiện-tại tạo ra các nghiệp, cho nên qua đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả. 

            12.  Lão, tử là già, chết.  Ðã có sanh ra, tất-nhiên phải chịu các khổ già và chết v.v… 

            Mười hai nhân-duyên này liên-quan mật-thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước vừa làm nhân cho quả sau, nối-tiếp không dứt trong thời-gian và làm cho chúng-sinh phải mãi mãi xoay tròn trong vòng sanh-tử. 

III.   PHƯƠNG-PHÁP QUÁN 

            Phương-pháp quán mười hai nhân-duyên có thể chia làm hai phần là: quán Lưu-chuyển và quán Hoàn-diệt.

            1.  Quán Lưu-chuyển. 

            Là quán-sát trạng-thái sanh-khởi và luân-lưu của mười hai nhân-duyên.  Sự quán-sát này có ba loại: 

            a)  Quán-sát trạng-thái sanh-khởi của mười hai nhân-duyên trong quá-khứ xa-xôi, từ vô-thỉ.  Từ vô-thỉ, vì vô-minh vọng-động, làm cho bản-tâm thanh-tịnh phải ẩn-khuất, như mây án nên trăng mờ (vô-minh), do đó, các vọng-động từ từ sinh-khởi (hành), thành ra có tâm (thức) và cảnh, đủ cả thế-giới và chúng-sinh (danh-sắc); trong thân chúng-sinh có sáu căn là chỗ của sáu trần thường phản-ảnh vào (lục nhập), rồi căn, trần thường tiếp-xúc (xúc) nhau sanh ra cảm-thọ (thọ), nhân thọ sanh ra ưa (ái), vì ưa mới giữ (thủ); do đó mà có (hữu) sanh (sanh) và già, chết (lão, tử). 

            Ðây là nói trạng-thái của mười hai nhân-duyên từ vô-thỉ, do vô-minh vọng-động, tạo-tác mà có thế-giới và chúng-sinh, rồi cứ như thế, tiếp-tục sanh-khởi cho đến ngày nay, và mãi mãi về sau v.v… 

            b)  Quán-sát trạng-thái lưu-chuyển của mười hai nhân-duyên trong ba đời: quá-khứ, hiện-tại, vị-lai.  Ðây là quán-sát sự xoay-vần của mười hai nhân-duyên trong thời-gian từ quá-khứ đến hiện-tại, từ hiện-tại đến vị-lai.  Mười hai nhân-duyên cũng như sợi dây chuyền có mười hai vòng, vòng này móc vào vòng kia, vòng kia móc vào vòng nọ, nối-tiếp nhau không có mối-manh, và liên-quan cả ba đời: quá-khứ, hiện-tại, vị-lai.  Như trong quá-khứ, vô-minh và hành (căn-bản vô-minh) làm nhân, sanh ra quả hiện-tại (thân đời nay) trở lại tạo nhân (trong hiện-tại) là “ái, thủ, hữu” (chi-mạt vô-minh); nhân hiện-tại lại sẽ thành quả vị-lai (thân đời sau) là “sanh, lão, tử”.  Nói tóm lại, do mê-hoặc (vô-minh) nên tạo nghiệp (hành), vì tạo nghiệp nên chịu khổ quả, nhân chịu quả khổ, rồi lại mê-hoặc tạo nghiệp v.v… nhân sanh quả, quả sanh nhân, nối-tiếp trong ba đời, quanh quẩn trong sáu đường sanh-tử luân-hồi, như cái bánh xe lăn tròn trên sợi dây.  Chỉ có khác là bánh xe thật thì chỉ có một cái biến-đổi rất chậm-chạp; còn bánh-xe mười hai nhân-duyên thì vừa chạy tới mà vừa biến-đổi, luôn luôn hoại và thành, thành và hoại… liên-tiếp trong ba đời: quá-khứ, hiện-tại và tương lai. 

            c)  Quán-sát sự sanh-khởi và lưu-chuyển của mười hai nhân-duyên trong một niệm của hiện-tại.  Nếu lấy một khoảng thời-gian ngắn trong hiện-tại để quán-sát, hành-giả cũng có thể thấy được sự sanh-khởi và lưu-chuyển của mười hai nhân-duyên, chứ không cần phải quán-sát cả ba đời.  Như khi đối cảnh, không rõ các pháp đều là lưu-chuyển (vô-minh) mà khởi vọng-niệm (hành) phân-biệt (thức) các cảnh vật (sắc); rồi trần-cảnh lại phản ảnh vào căn (lục-nhập), căn lại tiếp-xúc (xúc) với trần, sanh ra lãnh-thọ (thọ), nhân thọ sanh ra ưa muốn (ái), tìm cầu (thủ), do đó tạo ra các nghiệp (hữu) rồi theo nghiệp thọ quả-báo (sanh, lão, tử).

            Phân-tách ba pháp quán trên, hành-giả sẽ rút ra những nhận-xét sau đây: 

            -  Trong mười hai nhân-duyên, có hai nhóm làm nhơn và hai nhóm làm quả:  Một nhóm nhân quá-khứ (gồm có vô-minh và hành) và một nhóm nhân hiện-tại (gồm có ái, thủ, hữu). 

            Về phía quả, thì có một nhóm quả hiện-tại (gồm có thức, danh-sắc, lục-nhập, xúc, thọ) và một nhóm quả vị-lai (gồm có sanh, lão, tử). 

            -  “Vô-minh, hành” là căn-bản vô-minh, “ái, thủ, hữu” là chi-mạt vô-minh.  Có thể nói “vô-minh, hành” là cái biệt-hiệu của “ái, thủ, hữu”, còn “thức, danh-sắc, lục-nhập, xúc, thọ” là cái dị-danh của “sanh, lão, tử”.  Nói như thế là vì, nếu ta đổi qua tráo lại, sẽ thấy rõ: trong “ái, thủ, hữu”, có “vô-minh và hành”, còn trong “sanh, lão, tử” có “thức, danh-sắc, lục-nhập, xúc, thọ”. 

            -  Vô-minh thuộc về “hoặc”: hành thuộc về “nghiệp”; thức, danh-sắc, lục-nhập, xúc, thọ, thuộc vê “khổ”; ái thuộc về “hoặc”; thủ, hữu thuộc về “nghiệp”; sanh, lão, tử thuộc về “khổ”. 

  Hoặc

Khổ                 Nghiệp 

            Xem bản-đồ: 

            12 nhơn-duyên liên quan 3 đời nhơn-quả 

            1.  NHƠN (quá khứ) 

                        Căn-bản vô-minh (có ái, thủ, hữu): 

                        a.  Vô-minh   (hoặc)

                        b.  Hành         (nghiệp) 

            2.  QUẢ (hiện tại) 

                        (khổ)  Thân hiện tại 

                        1.  Thức

                        2.  Danh-sắc

                        3.  Lục-nhập             

                        4.  Xúc

                        5.  Thọ           

            3.  NHƠN (hiện tại) 

                        Chi mạt vô-minh (có vô-minh, hành) 

                        1. Ái              (hoặc)                                                                            

                        2.  Thủ                                                           

                        3.  Hữu                       (nghiệp) 

            4.  QUẢ (vị lai) 

                        (khổ)  Thân vị-lai 

                                 1.  Sanh

2.  Lão, tử 

            2.  Quán Hoàn-diệt. 

            Là quán-sát sự tiêu-diệt của mười hai nhân-duyên.  Có hai cách quán. 

            a)  Diệt vô-minh gốc rễ (căn-bản vô-minh). 

            Trong phần quán-sát trên, hành-giả đã thấy rõ: do vô-minh mà có hành, do hành mà có thức v.v…  Vậy thì bây giờ, nếu ta diệt vô-minh, thì hành sẽ bị diệt, hành bị diệt thì thức cũng không có v.v…  Hay nói một cách khác: do “mê-hoặc” nên thọ “nghiệp”, do tạo nghiệp nên mới chịu quả “khổ”.  Vậy muốn hết khổ, lẽ tất-nhiên là phải diệt nghiệp, muốn dứt nghiệp trước phải trừ vô-minh. 

            Trừ căn-bản vô-minh có hai cách: 

-         Ðối với các bậc Ðại-thừa Bồ-tát, vì thấy rõ thể-tánh chân-tâm do vô-minh vọng-động mà có thế-giới chúng-sinh, ngã và pháp, nên các ngài dùng trí Bát-nhã phá trừ “sinh tướng vô-minh”, để trở lại với bản-thể chân-tâm.  Khi đã ngộ được chân-tâm rồi, thì tất cả sanh-tử luân-hồi đều hết.  Như trong Bát-nhã Tâm-kinh có chép: “Ngài Quán-tự-tại Bồ-tát khi đi sâu vào trí Bát-nhã Ba-la-mật-đa rồi, thì thấy tất cả năm uẩn đều không, nên khỏi các điều khổ-ách…”  Hay như trong kinh Lăng-Nghiêm có chép:  “Ðối với người tỏ ngộ được chơn-tâm, thì mười phương thế-giới đều hết”.  

-         Ðối với người không thể phá trừ ngay được căn-bản vô-minh để trực ngộ chân-tâm, thì phải lần-hồi trải qua ba vô số kiếp tu-hành, khi đến địa-vị Ðẳng-giác, dùng Kim-cang-trí mới phá-trừ được “sanh tướng vô-minh”, chứng quả Diệu-giác (Phật). 

            b)  Diệt vô-minh ngành ngọn (chi-mạt vô-minh). 

            Ðối với hàng phàm-phu và Tiểu-thừa, căn-cơ thấp hẹp, thì không thể trực-tiếp phá trừ vô-minh gốc rễ như hai bực trên, mà chỉ có thể trực-tiếp phá trừ vô-minh ngành-ngọn là “ái, thủ, hữu”.  Khi ngành-ngọn đã bị chặt rồi, thì gốc rễ dần dần bị tiêu-diệt, như bụi tre mà bị xấn hết cả măng, thì sẽ phải tàn rụi. 

            Diệt-trừ vô-minh ngành-ngọn cũng gồm hai phương-diện: 

-         Quán lý:  Là dùng lý-lẽ để nhận thấy rằng các pháp chỉ do nhân-duyên hòa-hợp mà sanh ra, chứ không có thật (không hữu), bởi không có thật, nên không tìm cầu chấp-thủ (không thủ).  Ðã không chấp-thủ, thì cũng không tham-muốn (không ái).  Nghĩa là bắt đầu quán “hữu”, rồi đến “thủ”, rồi cuối cùng là “ái”.  Nếu ba cái nhân này không có, thì cái quả “sanh, lão, tử” cũng chẳng có.   

-         Quán-sự:  Là y theo sự-tướng mà quán-sát rồi thực-hành.  Hành-giả bắt đầu quán “ái” trước, rồi đến “thủ” và “hữu”.  Kinh chép: “Hữu ái sinh ưu, hữu ái sinh úy; vô sở ái nhạo hà ưu hà úy?”.  Nghĩa là : Bởi có tham-muốn nên mới có sanh lo-sợ, nếu không tham-muốn thì lo sợ gì?  -  Vì đối cảnh, sanh tâm tham-muốn (ái), nên mới tạo tác ra các nghiệp (thủ), do đó phải chịu sanh-tử luân-hồi (hữu).  Bấy giờ, nếu đối cảnh không tham ưu (không ái), thì chẳng tìm cầu chấp-thủ (không thủ), vì không chấp-thủ nên chẳng có sanh-tử luân-hồi (không hữu).  Cùng như trong kinh Lăng-Nghiêm Phật dạy: “…Chỉ khi các ông đối cảnh, không khởi vọng-niệm phân-biệt, thì tham, sân, si, chẳng khởi; tham, sân, si không khởi thì sát, đạo, dâm, vọng không sanh…”. 

            Tóm lại, mê-hoặc hết (ái) thì nghiệp chẳng có (thủ), nghiệp không thì khổ chẳng còn (hữu). 

            Trong bốn cách trừ vô-minh, chỉ có pháp “quán-sự” này dễ-dàng và thiết-thật nhất, lại hợp với căn-cơ của người tu-hành hiện-tại. 

IV.  HIỆU-QUẢ CỦA PHÁP QUÁN MƯỜI HAI NHÂN-DUYÊN 

            Hành-giả sau khi thành-tựu pháp quán mười hai nhân-duyên này, thì sẽ trừ được tâm si-mê là nguyên-nhân chính của khổ-đau và luân-hồi của chúng-sinh.  Ðức Phật thường bảo: “Sự khổ của Tam-đồ chưa hẳn là khổ, chỉ có người thiếu trí-huệ là khổ nhất thôi”.  Xem thế thì đủ biết trừ được tâm si-mê và làm cho trí-huệ được phát chiếu là một điều quan-trọng bậc nhất của kẻ tu-hành. 

            Hơn nữa, hành-giả còn nhờ pháp quán mười hai nhân-duyên này mà sẽ chứng được quả Duyên-giác.  Khi Phật chưa giáng-sinh, cũng có nhiều vị tu-hành nhờ quán-sát sự sanh-hóa của vũ-trụ mà được ngộ đạo.  Những vị ấy người ta thường gọi là Ðộc-giác, nghĩa là tự nghiên-cứu một mình mà được giác-ngộ.  Ðến khi Phật giáng-sinh, chỉ dạy pháp quán nhân-duyên, nhiều người y theo pháp quán này tu-hành mà được giác-ngộ, nên gọi là “Duyên-giác” (nghĩa là những vị giác-ngộ nhờ quán mười hai nhân-duyên). 

            Chỗ giải-thoát của quả-vị Duyên-giác và A-la-hán đều giống nhau, nhưng về trí-huệ và thần-thông thì quả Duyên-giác cao hơn quả A-la-hán. 

            Sau đây là một thí-dụ về sự thành-tựu pháp quán mười hai nhân-duyên của hai vị đại đệ-tử của đức Phật Thích-Ca, là ngài Xá-lợi-phất và ngài Mục-kiền-liên, lược-thuật theo kinh Nhân-quả: 

            Ở thành Vương-xá, có hai người Bà-la-môn rất thông-minh trí-huệ, một người là Xá-lợi-phất và một người tên là Mục-kiền-liên.  Hai người đều tu theo ngoại-đạo, có trên một trăm đệ-tử, và có hứa-hẹn với nhau rằng, nếu ai nghe được pháp mầu trước, thì phải chỉ dạy lại cho người kia. 

            Một hôm, ông Xá-lợi-phất đi đường, được nghe một vị đệ-tử của Phật là Thầy Tỳ-kheo A-xá-bà-kỳ, giảng-giải về đạo-lý nhân-duyên và tóm-tắt lại trong một bài kệ như sau: “Cội gốc của tất cả các pháp là nhân-duyên sinh, không ai làm chủ, nếu ai hiểu được pháp này, thì chứng được đạo chân-thật” (1). 

            Khi nghe xong, ông Xá-lợi-phất liền xa-lìa trần-cấu, chứng được đạo-quả thanh-tịnh. 

            Lúc trở về, ông Xá-lợi-phất giảng nói lại cho ông Mục-kiền-liên nghe.  Ông này nghe xong, cũng chứng được đạo-quả.  Hai ông liền đem 200 đệ-tử của mình, đến xin Phật cho xuất-gia làm đệ-tử.

C.      KẾT-LUẬN: 

Ðể độc-giả có một ý-niệm chung về bài giảng này và dễ nhớ, chúng tôi xin tóm-tắt những yếu-điểm sau đây: 

A.  Tất cả vạn vật không một vật nào riêng-biệt mà tồn tại được.  Chúng phải nương-tựa vào nhau mới thành vật này hay vật khác.  Ðó là lý nhân-duyên sanh, hay trùng trùng duyên-khởi.  Riêng về loài hữu-tình như kiếp người chẳng hạn, thì do mười hai nhân-duyên nương nhau mà thành một chuổi sanh-tử dài vô hạn, nối tiếp từ quá-khứ đến hiện-tại và vị-lai.  Tùy theo cái tác-dụng của nó mà mười hai nhân-duyên ấy có thể chia làm ba nhóm là: hoặc (mê-mờ), nghiệp (tạo-tác) và khổ (kết-quả). 

B.  Muốn dứt trừ chuỗi sanh-tử kéo dài trong biển khổ-đau của cõi tục, phải quán mười hai nhân-duyên.  Pháp quán này có hai phần là quán lưu-chuyển và quán hoại-diệt: 

1)  Quán lưu-chuyển. – Là quán hiện-tượng sanh-khởi và tiến-triển của mười hai nhân-duyên từ vô-minh, hành, thức … đến lão-tử.  Trong khi quán lưu-chuyển hành-giả có thể chỉ quán-sát sự sanh-khởi và tiến-triển của mười hai nhân-duyên trong quá-khứ, trong hiện-tại, hay cả trong quá-khứ, hiện-tại và tương-lai. 

2) Quán hoàn-diệt. – Là quán theo phương-pháp làm cho mười hai nhân-duyên phải tiêu-diệt.  Có hai pháp quán hoàn-diệt: 

a)  Một pháp dành cho những bậc đại căn-trí, như hạng Ðại-thừa Bồ-tát, đó là pháp “diệt căn-bản vô-minh”. 

b)  Một pháp dành cho những người căn-cơ thấp-thỏi như chúng ta, đó là pháp “diệt chi-mạt vô-minh”. 

Pháp quán sau đây lại chia ra làm hai là quán lý và quán sự: 

-         Quán lý: là quán các pháp không thật có (hữu) nên không chấp-thủ (thủ); bởi không chấp thủ nên không tham-ái (ái). 

-  Quán sự: là áp-dụng cái lý đã quán ở trên trong hoàn-cảnh thực-tại: Hành-giả phải cố-gắng thực-hiện sao cho khi đối cảnh không khởi tâm tham-ái (ái), nhờ không tham-ái mới không tạo-tác tìm-cầu (thủ); do không tìm-cầu nên không có (hữu) thọ quả sanh-tử về sau.           

            Hành-giả thành-tựu được pháp quán mười hai nhân-duyên này thì sẽ dứt trừ được vô-minh, thoát khỏi sanh-tử và chứng được quả-vị Duyên-giác.           Cầu mong cho quý-vị độc-giả thấu hiểu được chân giá-trị của pháp quán này và tinh-tấn tu-hành để đạt được quả-vị quý-báu nói trên. 

            PHỤ-CHÚ:           

            (1)  Có chỗ nói bài kệ như vầy: 

                        “Chư pháp tùng duyên sanh, diệc tùng nhân-duyên diệt,

                        Ngã Phật Ðại Sa-môn, thường tác như thị thuyết”. 

            Dịch nghĩa:                       

                        Các pháp do nhân-duyên sanh, cũng do nhân-duyên diệt,

                        Ðức Phật của chúng ta, thường dạy nói như vậy. 

            Theo Ðại-thừa thì bài kệ về nhân-duyên như vầy: 

                        “Nhân-duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị không,

                        Diệc danh vị giả danh, diệc danh trung-đạo nghĩa”. 

            Dịch nghĩa: 

                        Các pháp do nhân-duyên sanh, nên ta nói là không,

                        Chỉ là giả danh, cũng gọi nghĩa trung-đạo.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ IV )
QUÁN GIỚI PHÂN BIỆT
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712