Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Quán Từ Bi

QUÁN TỪ-BI 

A.      MỞ-ÐỀ: 

Trong các nguyên-nhân gây ra khổ-đau cho mình và cho người, tánh nóng-giận là một nguyên-nhân lớn, chắng kém gì lòng tham-lam và tánh ngu-si.  Từ vô-thỉ đến nay, sự xây-dựng của loài người lớn-lao vô kể; những sự phá-hoại, vì lòng giận dữ của họ, cũng lớn-lao vô cùng.  Loài người xây rồi phá, phá rồi xây không ngừng, chẳng khác gì những đứa trẻ xây nhà trên cát, xây xong rồi lại đạp đi, để rồi xây lại.  Và nguyên-nhân của sự phá-hoại ấy là lòng nóng-giận.  Có những sự nóng-giận nho-nhỏ trong nhà giữa vợ chồng làm đổ vỡ chén bát; có những sự nóng-giận giữa anh em làm u đầu sưng trán; có những sự nóng-giận giữa bạn-bè làm đoạn-tuyệt đường đi lối về; có những sự nóng-giận giữa tình-địch, hay đồng-nghiệp kinh-doanh cần phải thanh-toán bằng lưỡi dao, mũi súng hay lọ át-xít; có những sự nóng-giận lớn-lao hơn, giữa nước này với nước khác, màu da này với màu da nọ, chủ-nghĩa này với chủ-nghĩa kia, mà kết-liễu là những thây ma nằm ngổn-ngang trên bãi chiến-trường, những kẻ tật-nguyền trong các bệnh-viện, và những chiếc khăn tang trên đầu các cô-nhi quả-phụ… 

Tất cả những tai-họa trên đều do sân-hận mà ra.  Sân-hận nằm sẵn trong lòng mỗi người, như những ngọn lửa âm-ỉ cháy, như những ngòi thuốc súng sẵn-sàng bùng nổ bất luận lúc nào.  Lửa gặp lửa, thuốc súng gặp thuốc súng, không nói, chắc ai cũng biết tai-hại do chúng gây ra lớn-lao như thế nào! 

B.       CHÁNH-ÐỀ: 

I.                   ÐỊNH-NGHĨA 

Thông thường, người ta có quan-niệm sai-lầm rằng: Từ-bi là bi-lụy, mềm yếu, than khóc, tiêu-cực…  Người ta tưởng rằng hễ đã từ-bi, thì ai muốn làm thế nào, mình cũng chịu; sống trong hoàn-cảnh thế nào mình cũng phải theo, thiếu tinh-thần tiến thủ… Tóm lại, từ-bi theo nghĩa thông-thường là than-khóc và nhu-nhược. 

Nhưng thật ra, từ-bi theo Ðạo Phật có nghĩa khác xa, Phật dạy: “Từ năng dữ nhứt thiết chúng-sinh chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng-sinh chi khổ”, nghĩa là: Từ là cho vui tất cả chúng-sinh; Bi là diệt-trừ cái khổ cho tất cả mọi loài.  Diệt khổ và cho vui đó là tất cả nguyện-vọng và hành-động lợi-tha, cứu đời của người có lòng từ-bi.  Thế nên, từ-bi không phải là thụ-động, là trốn đời hay nhu-nhược.  Cái khổ và cái vui nói ở đây không chỉ là khổ và vui vật-chất mà gồm cả khổ và vui tinh-thần. 

Hết khổ và được vui tức là hai khía-cạnh của cuộc đời, nhưng không thể rời nhau ra được.  Khi được vui một phần nào, tức là đã bớt khổ một phần nào, ấy là trong Từ có Bi; và trái lại, khi bớt khổ một phần nào, tức là đã được vui một phần ấy, như thế là trong Bi có Từ.  Cũng như một đứa bé đang khổ-sở vì đi lạc đường, bỗng có ai chỉ đường cho nó, nó liền vui-mừng và hết khổ. 

Vậy từ-bi là một lòng thương rộng lớn vô biên, nói xui khiến người ta vận-dụng tất cả khả-năng, tâm-tư, phương-tiện để làm cho mọi người, mọi vật thoát khổ được vui. 

II.               SO-SÁNH TỪ-BI VỚI BÁC-ÁI 

Bác-ái là tình thương yêu rộng lớn.  Như thế thì bác-ái và từ-bi đều có một tánh-chất giống nhau, chỉ khác nhau ở chỗ rộng hẹp, sâu cạn mà thôi.  Có người cho rằng bác-ái rộng hơn từ-bi.  Cho như thế là vì chưa hiểu rõ nghĩa hai chữ Từ-Bi.  Như trên đã định nghĩa: Từ là cho vui tất cả chúng-sinh; Bi là diệt-trừ mọi khổ cho tất cả mọi loài.  Chúng ta đã biết Phật dùng hai chữ chúng-sinh là để chỉ cho tất cả mọi sinh-vật.  Vậy TỪ là cho vui cho tất cả mọi sinh-vật, chứ không phải riêng cho loài người.  Tất cả mọi vật có sự-sống đều được chung hưởng tình thương ấy.  Còn BI là diệt-trừ mọi nỗi khổ cho chúng-sinh.  Chúng ta nên để ý là trong câu định nghĩa chữ Hán, các kinh dùng chữ “bạt” nghĩa là nhổ tận gốc rễ.  Vâng, nhổ tận gốc rễ của cái khổ, chứ không phải chỉ thoa dịu cái quả khổ trong hiện-tại, mà để mặc cho cái nhân gây ra khổ mãi về sau.  Người có lòng Bi là vừa thoa dịu vết thương đau-khổ, như người là vườn, không phải chỉ phác cho sạch cỏ trên mặt đất, mà còn đào sâu xuống dưới, nhổ cho hết gốc rễ của cỏ nữa. 

Như thế thì Từ-bi, về phương-diện không-gian, bao gồm tất cả mọi loài, còn về phương-diện thời-gian, bao gồm tất cả quá-khứ, hiện-tại và tương-lai.  Còn Bác-ái thì chỉ chú-trọng nhiều về loài người mà ít để ý đến sinh-vật; và chỉ lo cứu khổ, cho vui trong hiện-tại mà ít nghĩ đến cái quả trong tương-lai. 

Nói một cách khác, Từ-bi là gồm hết nghĩa Bác-ái ở trong, còn Bác-ái thì chẳng trùm được lý Từ-bi. 

III.            TỪ-BI CỨU KHỔ VÀ CHO VUI NHƯ THẾ NÀO ? 

Trong khi so-sánh Từ-bi với Bác-ái, chúng tôi đã nói, về phương-diện không-gian, Từ-bi bao gồm tất cả mọi loài.  Thật thế, tình thương của Ðạo Phật vô cùng rộng lớn.  Phật dạy không được sát-sinh người mà cả muôn vật nữa.  Người Phật-tử chân-chính, triệt-để tuân theo lời Phật dạy, không những không giết hại sinh-vật để ăn, mà cũng không giết hại sinh-vật trong các cuộc săn-bắn hay câu cá để mua vui.  Ngày xưa, các vị Tỳ-kheo trước khi uống nước ao hồ, phải dùng một cái lọc để lọc nước, như thế vừa hợp vệ-sinh, vừa tránh khỏi sát-sinh những sanh-vật nhỏ ở trong nước.  Mỗi khi vào cầu, những người tu-hành phải gõ xuống đất ba tiếng, để cho những sinh-vật dưới cầu biết mà tránh trước.  Những cử-chỉ ấy mặc dầu nhỏ-nhặt, nhưng đã thể-hiện được một cách chân-thành lòng từ-bi của người Phật-tử chân-chính.  Chính nhờ lòng từ-bi ấy mà cuộc đời bớt khắc-nghiệt, khổ-đau, sự chém giết bớt tàn-khốc, chiến-trường được thu hẹp, người và vật không còn sát hại nhau, mà trái lại còn xem nhau như anh em. 

Nhưng nếu chỉ cho vui và diệt khổ trong hiện-tiền mà không nghĩ đến cho vui và diệt khổ trong tương-lai thì cũng chưa gọi được là Từ-bi.  Bởi thế, cần phải gây nhân vui và diệt nhân khổ.  Nhân vui và nhân khổ ở đâu mà có?  Trong kinh thường dạy: Khổ do nghiệp, nghiệp do hoặc.  Hoặc tức là phiền-não.  Phiền-não đều ở trong tâm mỗi chúng ta.  Tâm là nguồn gốc của mọi hành-động, của mọi kết-quả.  Vậy thì quả khổ hay vui chỉ do tâm cả.  Tâm chúng-sinh đầy dẫy phiền-não tật xấu, những mầm mống ấy sẽ trổ ra những quả khổ gian-lao.  Bởi thế, Ðạo Phật rất chú-trọng vấn-đề tu tâm, dưỡng tánh cho chính mình và người. 

Muốn cứu khổ cho thật tình, chẳng những lo cứu khổ quả, mà còn phải trừ nhơn khổ cho sớm.  Thế mới đúng như định-nghĩa đã nói ở trên về chữ BI (bật nhứt thiết chúng-sinh chi khổ).  Chẳng hạn, muốn một người nào khỏi bị cái khổ tù-đày, lao-lý, bắt-bớ, hành-hạ, ta phải dạy họ đừng tham-lam, trộm cướp và cần phải biết bố-thí,quý-trọng của-cải của người.  Muốn cho người nào khỏi khổ vì sự chia-rẽ, sát hại, thù hằn, ta phải dạy họ đừng sân và cần phải biết nhu-hòa, nhẫn-nhục.  Muốn cho người nào khỏi khổ vì sự ngu-si cám-dỗ, bóc lột, khinh hèn, ta phải dạy cho họ được sáng-suốt, giác-ngộ cảnh đời.  Khi họ hiểu rồi, tất nhiên không bảo họ tránh khổ, họ vẫn tránh. 

Muốn cho sự-nghiệp lợi-tha này được hoàn-toàn, người tu hạnh Từ-bi, còn có bổn-phận phải chỉ bảo cho người chung-quanh những phương-pháp tu-hành cho có hiệu-quả, như niệm Phật, tham-thiền chẳng hạn, để cho tâm-địa của họ được tăng-trưởng công-đức lành. 

IV.             PHƯƠNG-PHÁP QUÁN TỪ-BI 

Trong các đoạn trên, chúng ta đã phân-tách ý-nghĩa và tác dụng của từ-bi.  Chúng ta đã thấy được giá-trị tốt đẹp và lớn-lao của từ-bi.  Ðến đây chúng ta hãy đề-cập đến vấn-đề: “làm thế nào để huân-tập được lòng từ-bi”. 

Một trong những phương-pháp hiệu-nghiệm để huân-tập lòng từ-bi là “quán từ-bi”.  Quán từ-bi có ba từng bực thấp cao, tùy theo căn-cơ của ba hạng tu-hành: 

1.      Chúng-sinh duyên từ. 

Pháp quán này thường dành cho hạng tu tiểu-thừa thực hành. 

Chúng-sinh duyên từ, nghĩa là lòng từ-bi do quán-sát cảnh khổ của chúng-sinh mà phát-khởi. 

Chúng-sinh tức là muốn nói đến những hạng còn đang say mê, chìm đắm trong bể khổ sanh-tử, còn đang trói mình trong vòng phiền-não nhiễm-ô.  Chẳng hạn như loài ở địa-ngục bị hành-phạt đủ điều, ngạ-quỉ bị đói khát bức bách, súc-sanh bị cảnh dao thớt hành hình, A-tu-la đấu-tranh, chém giết.  Ðến như chúng-sanh ở cõi trời tuy vui thú, nhưng vẫn còn bị ngũ-suy-tướng hiện, luân-hồi, đọa-lạc như thường.  Và gần hơn hết là loài người, cũng chịu không biết bao nhiêu là cảnh khổ, từ vật-chất đến tinh-thần, từ cá-nhân đến đoàn-thể.  Nhất là đối với luật vô-thường: sanh, già, bệnh, chết, chưa ai thoát khỏi được.  Ðã không thoát được mà lại còn vô tình đi gây chuốc thêm lấy khổ, lắm khi cứ quên mất cái tuổi già, mỗi ngày mỗi chồng-chất, thật đáng thương hại! 

Vậy, đứng trước những cảnh khổ của chúng-sinh, người Phật-tử phải làm thế nào?  Phải phát lòng từ-bi!  Nhưng làm sao cho lòng từ-bi ấy được phát? 

Ðức Phật có dạy chúng ta phải quán-sát tất cả chúng-sinh trong lục-đạo, mười phương đều như bà con thân thuộc. 

Ðây là phương-pháp đầu tiên để hòa-hợp với mọi chúng-sinh.  Dùng cảm-tình mà tập quán Từ-bi.  Trước kia, chúng ta có thói quen là cái gì ngoài “ta” thì ít khi quan-tâm đến.  Giờ đây, quán Từ-bi tức là chúng ta đã phái cái vỏ ích-kỷ hẹp-hòi ấy mà giác-ngộ và nhận-định rằng: 

-  Thế-giới của loài người chúng ta đang ở đây, tỷ như một cái nhà lớn, nơi sum-họp và đoàn-kết của đại-gia-đình.  Vẫn biết rằng nhân-loại khác nhau về màu da, chủng tộc; nhưng cái khác đó chẳng qua là khác về bề ngoài, chứ đà là người thì ai ai cũng có một thân hình xương thịt như nhau, cũng đồng sợ khổ ưa vui, biết xấu biết tốt v.v…  Vì thế đối với người lớn tuổi, ta phải kính-trọng như ông bà chị em, người ngang hàng hay tuổi xấp-xỉ, xem như anh chị em ruột thịt; người nhỏ tuổi hơn nữa xem như con cái cháu chắt… 

            -  Rộng ra một tầng nữa, đối với chúng-sinh trong năm loại, chúng ta hãy xem như những thành phần của đại-gia-đình là chú, bác, cô, dì…  Vẫn biết rằng về hình-thức, loài người khác với loài khác, và nhiều khi ta không gặp mặt nữa, nhưng xét cho cùng, đã là chúng-sinh, thì tất nhiên đồng chung một nguồn sống, và đã có sống thì tất nhiên đều ham sống sợ chết, đều biết cảm nỗi vui sướng và khổ đau.  Gần với chúng ta nhất mà chúng ta có thể thấy, gặp và nhờ cậy được là loài súc-sinh.  Tuy chúng không biết nói như chúng ta, nhưng nếu chúng ta đối-đãi tử-tế, chúng cũng biết thương mến và trung thành với ta.  Tuy không có học thức, chúng vẫn biết nghe lời và giúp đỡ ta trong nhiều công việc nặng-nề.  Chẳng qua vì nghiệp nặng nên đời này chúng làm súc-vật, nhưng biết đâu đời trước, chúng không phải là anh em của ta?  Và sau này, biết đâu chúng lại không sẽ là bà con quyết thuộc của ta? 

            Phương-pháp tu-tập của Tiểu-thừa này tuy chưa phá được ngã chấp, nhưng cũng đã mở rộng được phạm-vi hẹp-hòi của cái ngã nhỏ và thể nhập vào cái ngã to hơn là đại-gia-đình; rồi từ cái ngã to tình-cảm ấy, sẽ chuyển dần sang giai-đoạn lý-trí cao-siêu hơn, bằng phép quán “Pháp duyên từ” sau đây.           

2.      Pháp duyên từ. 

Pháp duyên từ là lòng từ-bi do duyên “Pháp tánh” mà phát khởi.  Ðây là pháp quán dành cho các bậc Trung-thừa. 

Hành-giả trong khi tu pháp-môn này, quán-sát thấy tất cả chúng-sinh, cùng mình đều đồng một “pháp giới tánh”, nên chúng-sinh đau-khổ là mình đau-khổ; vì vậy hành-giả khởi lòng từ-bi cứu khổ, ban vui cho tất cả chúng-sinh.  Ðến địa-vị này, các ngài không còn phân-biệt là nam hay nữ, không còn quan-niệm mình khác với người, không nghĩ rằng đó là bà con quyến thuộc, chỉ thấy mình cùng người đồng một “pháp giới tánh” mà thôi.  Bồ-tát đã nhận chúng-sinh và mình đồng một bản-thể, nên khi cứu khổ, không cần biết đó là ai, và khi làm, không chấp mình đã làm.  Chúng-sinh có khổ thì Bồ-tát có Bi.  Sự thông-cảm tự-nhiên ấy như tình thiêng-liêng giữa mẹ và con, hễ có cảm là có ứng, như tánh sốt-sắng của vị y-sĩ có lương tâm nhà nghề, hễ thấy bịnh thì liền trị.  Với ý-nghĩa này, trong kinh Trung A-hàm có tỷ-dụ:  Trước một nạn-nhân bị trúng tên độc, việc làm cần kíp hơn hết của vị thầy thuốc là phải rút tên độc ấy ra lập tức.  Ông không cần phải hỏi người ấy tên gì, ở đâu, con ai, cũng không cần coi cây tên ấy làm bằng gì, ai bắn v.v… 

Sự cứu khổ cho chúng-sinh, đối với các vị Bồ-tát đã chứng được “pháp duyên từ” này cũng như thế, chỉ nhắm mục-đích làm sao cho kẻ khác hết khổ được vui mà thôi. 

3.      Vô duyên từ. 

Trong phạm-vi bài này, chúng ta chỉ nên học qua hai hạng từ-bi trên mà thôi, là: Lòng từ-bi do duyên mình với chúng-sinh khổ-sở mà phát ra, hay do duyên mình và chúng-sinh đồng một thể-tánh mà phát-khởi.  Còn loại từ-bi thứ ba tức là “Vô duyên từ” là một loại cao-siêu đặc-biệt của Ðại-thừa, chúng ta chưa đủ căn-cơ, trình-độ tu-tập.  Tuy nhiên, để có một ý-niệm đầy-đủ về lòng Từ-bi, chúng ta cũng nên biết qua về loại này. 

Vô-duyên-từ, là lòng từ-bi không có tâm năng-duyên và cảnh bị duyên, không còn dụng công, không còn quan-sát, đối-đãi giữa mình với người, mình và vật như hai thứ từ-bi trước.  Lòng từ-bi này xứng theo thể-tánh chơn-tâm mà tự khởi ra bao-la, trùm khắp, không thiên lệch một nơi nào.  Cũng như ánh-sáng mặt trời chiếu khắp cả gần xa, không phân-biệt thấp cao, không chú-ý một nơi nào, chiếu soi tất cả một cách vô-tư và không dụng công. 

V.                LỢI-ÍCH CỦA PHÁP QUÁN TỪ-BI 

Có người lo rằng nếu ai cũng từ-bi thì sẽ trở thành nhu-nhược, dân-tộc sẽ yếu-hèn, và sự tham-tàn bóc-lột sẽ lừng-lẫy v.v… 

Lo như thế là quá lo xa mà thành ra không thực-tế.  Từ xưa đến nay, loài người không phải khổ-sở vì quá từ-bi, xã-hội không phải yếu-hèn, đảo-điên vì tình thương quá rộng lớn.  Trái lại, sự đau-khổ của cá-nhân cũng như của đoàn-thể, một phần rất lớn là do lòng người còn độc ác.  Một nhận-xét không ai có thể chối cãi được là một xã-hội càng văn-minh thì lòng ác-độc càng bớt, tình thương càn tăng thêm, hay ngược lại, tình thương càng tăng, ác-độc càng giảm, thì xã-hội càng văn-minh, hạnh-phúc.  Hãy khoan lo sợ từ-bi làm cho con người mềm-yếu, mà chỉ nên lo sợ, nếu sự thù-hằn, độc ác không giảm, thì loài người chắc-chắn sẽ bị tiêu diệt. 

Khái lược theo kinh Tăng-Nhất A-Hàm thì người quán Từ-bi sẽ được những lợi-ích như sau: 

a)     Khi thức hay ngủ đều được yên vui.

b)     Hiện-tại được nhiều người thương.

c)     Sống trong đời không bị tai-nạn trộm cướp. 

Nhưng thực-hành pháp quán Từ-bi, không phải chỉ để chúng ta cầu những quả-báo lợi-ích riêng cho mình, và chỉ có bấy nhiêu đó.  Mục-đích chúng ta tu là cốt làm sao cho chúng ta và mọi chúng-sinh trong lục-đạo đều khỏi khổ được vui.  Lẽ tất-nhiên, trong khi tu chúng ta sẽ: 

-   Trừ được lòng sân-hận độc-ác.

-         Dẹp được ngã-chấp hẹp-hòi.

-         Ðoàn-kết được với mọi người.

-         Ðời sống cá-nhân và đoàn-thể nhờ thế được vui-vẻ, có ý-nghĩa. 

C.      KẾT-LUẬN: 

Từ-bi là một phương thuốc trị tâm sân-hận.  Sân-hận là đầu mối sát-hại ghê-gớm, là cái chìa-khóa của tất cả kho tội-lỗi.  Trừ được nó tức là trừ được giết-chóc, và dập tắt được cái ngòi biến-loạn.  Bao nhiêu súng đạn và nhất là bom nguyên-tử sẽ trở thành vô-dụng.  Trong nhân-loại, không còn ai là cừu địch, không còn có giai-cấp bóc-lột, đấu-tranh.  Ai cũng là người đáng thương, đáng giúp-đỡ.  Giữa người và người, giữa người và vật sẽ có một sự liên-lạc, đoàn-kết mật-thiết.  Con người sẽ vô cùng sung-sướng khi thấy xung-quanh mình đều là bà con quyến-thuộc, bốn biển đều là anh em và cùng chan hòa trong Phật-tánh.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ IV )
QUÁN NHÂN DUYÊN
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712