Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Ðạo Ðế (Tứ Niệm Xứ)

ÐẠO - ÐẾ (NIRODHA GAMADUKKHA) 

A.  Tứ Niệm-Xứ 

A.      MỞ-ÐỀ: 

NÓI TỔNG-QUÁT VỀ ÐẠO-ÐẾ 

            Như trong bài trước đã nói, muốn thực chứng, thể-nhập Niết-bàn thì phải tu theo phương-pháp mà Phật đã dạy.  Phương-pháp chân-chính, có hiệu-quả chắc thật để thành Phật đó là Ðạo-đế.  Phần này là phần quan-trọng nhất trong bài Tứ-diệu-đế, vì nếu có rõ biết đời là đau-khổ, nguyên-nhân của nó là gì, và nếu có thiết-tha cầu giải-thoát khỏi cảnh khổ để đến một cõi an-vui tốt-đẹp nhất là Niết-bàn, nhưng nếu không có phương-pháp hiệu-nghiệm để thực-hiện ý muốn ấy, thì biết cho nhiều cũng vô ích và càng thêm đau-khổ.  Do đó, Ðạo-đế là phần quan-trọng và được Phật dạy một cách rõ-ràng chu-đáo.

            Ðạo-đế có 37 phẩm, chia ra làm 7 loại: 

1.      Bốn món Niệm-xứ (Tứ Niệm-xứ).

2.      Bốn món Chánh-cần (Tứ Chánh-cần).

3.      Bốn món Như-ý-túc (Tứ Như-ý-túc).

4.      Năm Căn (Ngũ Căn).

5.      Năm Lực (Ngũ Lực).

6.      Bảy phần Bồ-đề (Thất Bồ-đề phần).

7.      Tám phần Chánh-đạo (Bát Chánh-đạo). 

B.       CHÁNH-ÐỀ: 

ÐỊNH-NGHĨA VỀ TỨ NIỆM-XỨ 

            TỨ là bốn; NIỆM là hằng nhớ nghĩ; XỨ là nơi chốn.  Tứ Niệm-xứ là bốn chỗ, bốn điều mà kẻ tu-hành thường để tâm nhớ nghĩ đến.  Ðó là: 

                        Quán thân bất-tịnh.

                        Quán tâm vô-thường.

                        Quán pháp vô-ngã.

                        Quán thọ thị-khổ. 

1.      Quán thân bất-tịnh. 

Quán nghĩa là tập-trung tư-tưởng để quán-sát cho thấu-đáo.  Bất-tịnh nghĩa là không sạch.  Quán thân bất-tịnh nghĩa là tập-trung tư-tưởng để quán-sát một cách tường-tận về sự dơ-bẩn của cái thân ta. 

Nói cái thân là bất-tịnh, chắc có nhiều người ngạc-nhiên, phản-đối cho là Phật đã nói quá đáng. 

Trong đời còn cái gì là quý-báu hơn cái thân đâu?  Người ta bảo-bọc nó, nâng-niu nó, cung-phụng nó đủ điều.  Người ta cung-cấp cho nó đủ thức ngon vật lạ; người ta đùm-bọc nó trong hàng, lụa, gấm, vóc; người ta che-chở nó trong nhà cao cửa lớn; người ta dám làm tất cả những việc bất nhân tổn đức để cho nó được sung-sướng.  Cái thân được quý-chuộng, tôn-trọng như thế, mà bảo rằng nó là dơ-bẩn, gớm-ghiếc thì ai mà nghe được. 

Song bình-tĩnh mà xét lại, cái thân này thật không có gì là trong-sạch cả.  Ngay từ khi mới đầu-thai, cái thân này đã là bất-tịnh rồi, vì nó là do hai thứ nhơ-nhớp là phụ tinh và mẫu huyết mà cấu thành.  Ở trạng-thái đầu tiên, nó chẳng khác gì một con hộ-trùng, rồi dần dần lớn bằng hạt đậu, rồi bằng miếng thịt, nằm lẫn trong máu-me nhơ-nhớp. 

Về sau, nhờ sự duy-trì của nghiệp-thức, nó tượng thành hình người, chìm ngập trong một cái bọc đầy máu huyết.  Cái thân nằm co-rút trong đó cho đến chín tháng mười ngày, rồi chun theo một con đường rất bẩn thỉu, để ra khỏi bụng mẹ.  Từ đó, nhờ những thực-phẩm phần nhiều cũng không được tinh-khiết gì như thịt cá, mà cái thân lớn dần.  Nếu xét về sự tiêu-hóa của thức an thì chúng ta cũng không khỏi lấy làm khó chịu: những món ngon vật lạ, mới nuốt vào thì ai cũng ưa thích, như khi đã nuốt vào khỏi cổ cách một đêm đã biến thành đồ bất-tịnh, khi bài-tiết ra thì không ai chịu nổi, ngày chưa tắm đã thấy bẩn-thỉu, rít-rắm; cái miệng sáng dậy chưa súc, đã nghe có mùi rồi.  Trong thân, chín lỗ thường trôi chảy ra những đồ bất-tịnh như: đại, tiểu, ghèn, rái, mũi, dãi… lắm chuyện nhơ-nhớp.  Ðó là mới nói bề ngoài, bề trong thân người lại dơ hơn thập phần.  Khi mổ bụng một con gà, con heo ta thấy một đống nào bọc chứa ruột non, ruột già, tin, gan, phèo, phổi, bong-bóng… như thế nào, thì các bộ-phận trong cơ-thể ta cũng chẳng khác gì thế ấy.  Nhất là bộ tiêu-hóa là chỗ chứa-đựng đủ thứ vật thực hôi-thúi, chẳng khác gì một thùng phân. 

Ðó là mới nói khi lành mạnh, còn khi đau ốm lại càng dễ sợ hơn: nào đàm, nào mũi, thúi tha tanh-hôi không sao chịu được, nhất là gặp những bệnh nan-y như lao, cùi, giang-mai, hoa-liễu, thì thật là không ai dám lại gần.  Ðó là khi trẻ, còn khi già đầu bạc răng long, lưng còm, da nhăn, má cóp, đi đứng yếu-ớt, không còn đủ sức để sửa-soạn bề ngoài thì lại càng nhớp-nhúa hơn nữa. 

Ðến khi chết, nghiệp-thức không còn duy-trì để thay lớp mới đổi lớp cũ, thì da thịt rã-rời, đụng đâu rệu đấy.  Nếu không đem chôn cất cho kín, thì ruồi bọ, troi giòi rúc rỉa, mùi hôi-thối xông lên không ai chịu nổi. 

Vậy cái thân này quả thật là bất tịnh, không còn chối cãi vào đâu được.  Nhưng người đời vì không xét kỹ nên mới yêu-quí nó, cưng dưỡng nó đủ điều:  Hễ thân ưa gì thì mình ưa, thân ghét gì thì mình ghét; làm nô-lệ cho thân, gây nghiệp, chịu báo đời đời kiếp kiếp không dứt.  Cũng vì thân, mà tham, sân, si nổi; cũng vì thân mà sát, đạo, dâm sanh; cũng vì thân mà vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác-khẩu hoành-hành.  Trăm ngàn vạn điều lỗi-lầm, cũng vì quá cưng-dưỡng cái thân này mà tạo thành ra.

Vậy hành-giả cần phải quán-sát rõ cái thân là bất-tịnh, mới tránh được những nghiệp tham ái.  Nhưng quán-sát như thế nào? 

Xưa ở Ấn-độ, khi một hành-giả muốn quán-sát thân bất-tịnh, thì tìm đến khu rừng người ta bỏ xác người chết, gọi là thi-lâm (1) để quán theo lối “Cửu-tưởng-quán” của Phật dạy.  Phép quán này gồm các giai-đoạn như sau: 

a)  Trướng-tưởng:  Ngày đầu tiên ở gần bên cạnh thây chết, quán thây sình trướng to lên. 

            b)  Thanh-ứ-tưởng:  Ngày thứ hai quán thây bị gió nắng bầm xanh. 

c)      Hoại-tưởng:  Ngày thứ ba, quán thây bị rã nát ra. 

d)     Huyết-đồ-tưởng:  Ngày thứ tư, quán thây máu thịt rơi-rớt lai-láng. 

e)      Nồng-lãng-tưởng:  Ngày thứ năm, quán thây chết huyết thịt rã. 

f)       Hám-tưởng:  Ngày thứ sáu, quán chim thú đến xé ăn thây. 

g)     Tán-tưởng:  Ngày thứ bảy, quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay chân chia tan nát vỡ. 

h)     Cốt-tưởng:  Ngày thứ tám, quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa-bãi. 

i)       Thiêu-tưởng:  Ngày thứ chín, quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro đất. 

Chín phép quán tưởng này, để đối-trị lòng tham sắc-dục. 

Một khi phép quán tưởng này đã thuần-phục, thì kẻ tu-hành thấy một cách tường-tận như ở trước mắt, thân mình và tất cả mọi người đều bất-tịnh, không có gì đáng quý-chuộng, ham muốn.  Do đó, có thể đối-trị được bịnh tham sắc dục là một bịnh rất trầm-trọng và nguy-hiểm của con người trên bước đường tu-hành.  Nhưng quán thân bất-tịnh là để trừ lòng tham sắc-dục, chứ không phải để ghê tởm thân mình, đến nỗi đi hủy bỏ mạng sống, như sáu mươi vị Tỳ-kheo trong thời Phật tại thế, sau khi quán thân bất-tịnh thuần-thục rồi, thấy ghê-tởm mình và người chung-quanh đến nỗi thuê người giết đi.  Ðấy là một điều mà đức Phật nghiêm-cấm. 

Ngày nay chúng ta không có được huệ-nhãn như Phật để trỏ vào bọn nữ-sắc mà Thiên-ma sai đến để quấy rối, và bảo rằng: “Những cái túi da đựng toàn những đồ dơ bẩn kia, hãy đi đi, ta không dùng!”.  Nhưng nhờ khoa-học đã phát-minh ra quang-tuyến, chúng ta có thể thấy được rõ-ràng những bộ xương sườn, xương sống, đầu-lâu, tim, gan, phèo, phổi của một tuyệt-thế giai-nhân, qua ống rọi kiến.  Và chỉ chừng ấy cũng đủ cho chúng ta quan-niệm rằng: cái đẹp chỉ là bộ mã bên ngoài, là lớp da bọc, chứ bên trong thì bộ xương người nào cũng giống nhau cả, và chiếu qua quang-tuyến X, thì cái đầu-lâu của một người đẹp, cũng chẳng khác gì cái đầu-lâu trắng phêu đang nằm lăn-lóc ngoài bãi tha-ma. 

Hỡi Phật-tử, nếu ai phát tâm chân-thật tu-hành, thì hãy cố-gắng thi-hành pháp “quán thân bất-tịnh”; nếu chưa đủ phương-tiện để thực-hành phép quán ấy, thì cũng đừng bao giờ nên quên rằng: thân người không trong sạch, không có gì đáng say-mê đắm-đuối để đến nỗi phải gây ra bao tai hại, tội-lỗi không lường cho mình và người chung-quanh. 

2.      Quán tâm vô-thường. 

Tâm vô-thường, nghĩa là cái tướng của tự-tâm chúng ta luôn luôn đổi thay, không thường.  Cái tướng của tự-tâm là gì?  Chính là cái phân-biệt, hiểu biết hằng ngày, cái thức. 

Người không học Phật thì không nhận biết thể chơn-như rộng lớn cùng khắp cả vũ-trụ, mà nhận lầm cái phân-biệt, cái thức là Ta, và cho rằng cái Ta ấy là thường còn, không thay-đổi, như những ngoại-đạo chấp có thần-ngã hay có linh hồn thường-trụ. 

Thần-ngã là lối chấp của “Số-luận-sư”.  Họ cho rằng mỗi chúng ta có một thần-ngã tự-tại, trong sạch, nhưng vì phân-biệt, nên nhận thấy có vũ-trụ vạn-hữu, rồi sanh lòng ưa muốn, bỏ mất thần-ngã tự-tại trong sạch ấy.  Vậy muốn cho thần-ngã được giải-thoát, thì phải dứt cả các món phân-biệt.  Dứt cho hết sạch, không thấy, không nghe, không biết nữa, thì thần-ngã mới hiển-lộ ra, và khi ấy mới nhận biết rằng vì mình mới sanh ra có vũ-trụ.  Họ cho như thế là rốt-ráo, mà không biết thần-ngã ấy cũng chỉ là vọng-thức mà thôi. 

Còn linh-hồn là lối chấp của đa số thần-giáo.  Họ cho rằng duy có xác thịt chết, chứ cái linh-hồn trong trường-hợp nào cũng vẫn nhận biết mình, biết người, cũng thấy nghe như xác thịt, không bao giờ chết. 

Nhưng sự thật không phải thế: cái tâm của chúng ta không thường chút nào hết.  Nó thay đổi luôn, khi nhỏ khác, khi lớn khác, khi có học khác, khi chưa học khác, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi chuyên niệm về một chỗ, khi tản-mác ra các trần duyên… thật không có gì là thường hết.  Nó là tâm-pháp vô thường, có thay đổi đủ cách, tùy chỗ tu tập của mình mà tiến-hóa.  Nếu tâm là thường thì không có sanh-tử.  Nếu tâm là thường, thì dù có tu-hành cũng không tăng trưởng, thì người dốt cứ dốt, người vụng cứ vụng, người dữ cứ dữ.  Nếu tâm là thường thì không có nhân-quả, tu cũng chừng ấy, mà không tu cũng chừng ấy, dữ cũng chừng ấy, mà lành cũng chừng ấy, cho đến người học, người không học cũng như nhau, chẳng có gì sai khác, thay đổi cả. 

Vì muốn đối trị cái vọng-chấp kia, nên Phật mới dạy phép quán “Tâm vô-thường”, để cho chúng-sinh nhận biết rằng cái tâm không phải như một vật bất biến vô-dụng, không phải là cái “ta” chắc thật muôn đời, rồi nương vào đó mà sanh ra không biết bao nhiêu là vọng-tưởng phiền-não.  Những tánh tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến v.v… đều do ngã-chấp mà sanh ra cả. 

Lại cũng vì chấp tâm là thường nên chi chi cũng cho là do bản-tánh của mình, không thể sửa đổi được, như bảo: “tánh tôi hay nóng giận, hay tham-lam”; “tánh tôi hay đa mê đờn ca xướng hát”; “tánh tôi thích cờ bạc rượu chè”. 

Họ cho đó là một lối bào chữa, vì không phải lỗi tại họ, mà tại cái bản-ngã chắc thật của họ như thế rồi, không làm sao sửa đổi được.  Do đó, họ không thể nâng cao tâm trí theo con đường chơn-chánh được. 

Vậy, Phật-tử chúng ta cần phải quan-sát cái “tam vô thường”, đổi cái tâm mê-lầm ra cái tâm giác-ngộ, phá trừ ngã chấp để ra khỏi vòng sanh-tử luân-hồi”. 

3.      Quán pháp vô-ngã. 

Pháp, theo tiếng Phạn là Dharma.  Tàu dịch là quỷ-trì, nghĩa là nắm giữ phạm-vi của mình, như vuông, dài, tròn, méo… để mỗi khi người ta trông đến, liền nhận biết cái này là vật gì, và khỏi lẫn lộn với vật khác.  Nghĩa chữ Pháp rộng lớn mênh-mông, chỉ cho tất cả mọi sự vật trên vũ-trụ, chẳng những các vật hữu-hình, cho đến các vật vô-hình tưởng-tượng như lông rùa, sừng thỏ, cũng gọi là Pháp cả. 

Còn ngã có nghĩ là chủ-tể, là riêng có tự-tướng của mình.  Người ta thường chấp các pháp đều có tự-tướng, có cái ngã riêng biệt.  Người có tự-tướng của người, vật có tự-tướng của vật, thế-giới có tự-tướng của thế-giới, quốc-gia có tự-tướng của quốc-gia, xã-hội có tự-tướng của xã-hội. 

Ðã chấp có tự-tướng của mình, tất nhiên thấy có tự-tướng của người khác.  Ðối với tự-tướng của một vật, hễ về mình thì không về ngưòi khác, còn về người khác thì không về mình.  Do đó, sinh ra tâm niệm nhân, ngã, bỉ, thử, quí trọng, khinh rẽ, tranh chấp, đấu tranh trong xã-hội. 

Song, xét ra cho kỹ thì các pháp nào phải thật có “tư-tướng”?  Nói về lục-trần thì sắc đối với không, động đối với tịnh, sanh đối với diệt… nào có cái gì riêng một mình thật có tự-tướng đâu?  Trần đối với căn mà có hình tướng, căn đối với trần mà có tác-dụng, ngoài trần không có căn, ngoài căn không có trần.  Như thế, thì biết tất cả các pháp, dù căn, dù trần cũng đều không có tự-tướng. 

Trong kinh Lăng-Nghiêm có câu: “Nhân-duyên hòa-hợp, hư vọng hữu sanh, nhân-duyên biệt-ly, hư-vọng hữu-diệt”.  Nghĩa là các nhân-duyên nhóm hợp thì giả dối có sanh ra, các nhân-duyên chia rẽ, thì giả dối gọi là chết.  Vậy đủ biết: tất cả pháp làm nhân-duyên cho nhau, in tuồng là có, chứ không có tự-tướng.  Không có tự-tướng, tức là “vô-ngã”. 

Ví như trong giấc chiêm-bao, vì nhân-duyên chiêm-bao hiện ra thấy cảnh này, cảnh khác.  Ðương khi ấy, người chiêm bao cũng lầm tưởng là thật có, đến khi thức dậy; mới nhận ra nó là cảnh giả dối trong chiêm-bao.  Chúng ta cũng thế, vì mê-lầm nên không nhận ra được sự giả dối của sự vật.  Trong khi tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với tâm, vạn phát hiện ra giữa vũ-trụ, chúng ta tưởng là thật có.  Thật ra, các pháp đều không tự-tướng, đều là “vô-ngã”. 

Chúng ta không biết lý “pháp vô-ngã” cho nên, ngoài bị hoàn-cảnh kích-thích, trong bị phiền-não lay động, quay cuồng theo sự múa rối của giả-cảnh.  Vì thế, tuy muốn tự-tại mà chưa lúc nào chúng ta được tự-tại, muốn an vui mà chưa lúc nào được an vui, muốn thường trụ mà vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh-tử… 

Nếu chúng ta chứng được pháp vô-ngã rồi, thì một thể vô-ngã trùm khắp cả pháp-giới.  Cảnh cũng vô-ngã, tâm thức cũng vô-ngã, thì còn cái chi mà ghét, mà thương, mà phải chịu sanh-tử luân-hồi nữa? 

Pháp vô-ngã là lối tu giải-thoát rốt ráo.  Nếu ai ai cũng biết tu hạnh vô-ngã một đôi phần thì đâu còn sự ích-kỷ hại nhân, và cảnh tượng thế-giới hòa-bình đâu phải là một điều không thể thực-hiện được? 

4.      Quán thọ thị-khổ. 

Thọ là nhận, nhận lãnh.  Thọ thị khổ nghĩa là có nhận lãnh là có khổ. 

Nhận lãnh đây là nhận lãnh cái gì? 

Vì sao nhận lãnh lại khổ? 

Nhận lãnh ở đây có một nghĩa vô cùng rộng rãi, nghĩa là nhận lãnh tất cả những gì mà người đời có thể nhận được trong cuộc sống.  Trước tiên nhận lãnh cái thân này là cái thân riêng của ta, cái tâm này là cái tâm riêng của ta.  Sự thọ nhận này là nguồn gốc đầu-tiên để thọ nhận những cái khác về sau: để giữ gìn thân mạng, ta thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thọ những cái gì làm cho ta khoái-trá, thích-thú, vui-vẻ.  Và lòng tham càng nhiều, thì thọ lại càng lắm.  Từ cái thọ cần-thiết cho cuộc sống, ta tiến dần đến những cái ít cần-thiết, rồi đến những cái thọ xa-xỉ, thừa thải vô ích, nhưng vì thói quen góp nhặt, tham-lam, ta không thể bỏ qua được.  Nói tóm lại, mỗi chúng-sinh, mỗi cuộc đời là một chuổi thọ nhận liên tiếp. 

Và chính sự thọ nhận ấy là mầm chính của đau khổ. 

Trước tiên ta thọ nhận cuộc đời; nhưng cuộc đời là gì nếu không phải là một trường đau khổ, như chúng ta đã thấy trong phần khổ-đế?  Nào sanh, nào lão, nào bệnh, nào tử, nào yêu mà phải xa lìa, nào oán mà phải gặp gỡ v.v… thật là toàn những khổ, nhưng đó là mới nói những nỗi khổ căn-bản.  Ngoài ra, còn bao nhiêu nỗi khổ khác, cũng do thọ mà ra như: nhận được một cái gì đó cho là quý thì nơm-nớp sợ mất, lo tìm kiến cách này, chước nọ để giữ gìn nó.  Nhưng cuộc đời của ta mà cũng không giữ mãi được thì còn cái gì giữ được nữa?  Do đó, sanh buồn thương, tiếc nuối, mất ăn bỏ ngủ.  Và người càng thọ nhiều chừng nào lại càng khổ chừng ấy.  Kẻ giàu thì sợ mất của, kẻ có địa-vị thì sợ mất địa-vị, kẻ có người yêu đẹp thì sợ mất người yêu, kẻ có danh-vọng lớn thì sợ mất danh-vọng… 

Nhưng có phải thọ lãnh thì bao giờ cũng được thọ lãnh theo ý muốn đâu?  Thọ mà gặp thuận cảnh thì được thỏa dạ trong phút đầu-tiên, nhưng thọ mà gặp nghịch cảnh thì càng thêm đau khổ.  Ở đời, thuận cảnh thì ít, mà nghịch cảnh thì quá nhiều.  Thường thường, ta ngửa tay mong nhận lãnh một cái này, mà một cái trái ngược khác lại rơi vào tay ta!  Do đó, sanh giận dữ, thất vọng, khổ đau. 

Ðó là nghĩa của “Thọ thị khổ”.  Phép quán này mục-đích đối trị bệnh tham là một bệnh trầm-trọng nhất trong các bệnh phiền-não, đã ăn sâu gốc rễ trong lòng chúng-sinh từ lâu đời lâu kiếp. 

Vậy Phật-tử chúng ta, muốn diệt trừ tánh tham, phải quán “thọ thị khổ”.  Ta phải luôn luôn nhớ lời Phật dạy: hễ có lãnh thọ thì có khổ; càng lãnh thọ nhiều thì càng khổ lắm.  Càng ít lãnh thọ, thì khổ đau càng vơi.  Tất-nhiên chúng ta không thể xả bỏ tất cả trong một lúc; nhưng chúng ta tuần tự xả những gì dễ xả, có thể xả được, rồi đi dần đến những cái khó xả.  Càng xả chừng nào lại càng nhẹ gánh đau thương.  Người đời thường cho rằng càng gánh nhiều vàng bạc châu báu, danh-vọng, địa-vị, sắc-đẹp, vui thú, lại càng sướg; nhưng đã gọi là gánh thì gánh gì cũng là gánh, và càng gánh nặng thì vai càng đau, chân càng mõi, đi càng chậm, tóm lại, khổ càng nhiều.  Trái lại, nếu chúng ta không lãnh thọ, như sắc đẹp, mùi ngon, vị lạ v.v… thì thân tâm ta không bị lay động.  Ðối với cảnh, ta thấy không có gì đáng ưa, cũng không có gì đáng ghét; không có gì đáng vui mừng, cũng không có gì đáng khổ sở.  Như thế mới được an-nhiên, tự-tại, thoát vòng khổ đau. 

C.      KẾT-LUẬN:

“Tứ niệm-xứ” là giáo-lý căn-bản trong phần Ðạo-đế.  Có hiểu được giáo-lý này một cách tường tận thì sự tu-hành mới vững chắc được.  Nó đánh đổ được một cách rốt-ráo bốn thành-kiến sai lầm lớn lao của con người là: tưởng thân mình là quý báu tốt đẹp trong sạch; tưởng tâm mình là vĩnh-viễn thường còn, như một linh-hồn bất-diệt; tưởng mọi sự vật trên đời này là chắc thật trường cữu; tưởng thu nhận tom góp được nhiều chừng nào thì sung-sướng chừng ấy. 

Nhưng sự thật lại rất trái ngược: 

1.      Thân thì bất tịnh, như một cái đảy đựng đồ nhơ, không đáng nâng niu chiều chuộng. 

2.      Tâm thì vô-thường, luôn luôn biến đổi theo với hoàn-cảnh bên ngoài, không có gì là trường tồn, bất diệt. 

3.      Pháp thì vô-ngã, không có tự-tánh nhất-định, không chắc thật mà đều là như huyễn như hóa. 

4.      Thọ thì khổ; chẳng hạn, ta thọ lãnh cái thân, thì cái thân là dơ bẩn; ta thọ lãnh cái tâm, thì tâm là vô-thường và luôn luôn biến đổi; ta thọ lãnh sự vật ở chung quanh, thì sự vật đều là giả trá, như khói, như mây.  Do đó, càng thọ lãnh nhiều chừng nào, lại càng đau khổ nhiều chừng ấy. 

Vậy chúng ta phải luôn luôn quán sát, ghi nhớ bốn sự thật trên đây.  Càng chứng được bốn sự thật ấy chừng nào thì sự chấp ngã, chấp pháp, tham, sân, si, lại càng vơi dần chừng ấy. 

            Phật-tử càng nắm vững 4 sự thật ấy chừng nào, thì sự tu-hành theo các môn trong Ðạo-đế sau này, như bốn món chánh-cần, bốn món như-ý-túc, ngũ-căn, ngũ-lực v.v… mới dõng-mãnh và chóng có kết-quả chừng ấy. 

__________________ 

(1)     Ở Ấn-độ có 4 cách táng người chết là thả xuống sông, hỏa-thiêu, chôn và bỏ vào rừng.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ III )
ÐẠO ÐẾ (TỨ CHÁNH CẦN)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712