Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Tập Ðế

TẬP - ÐẾ (SAMEDA DUKKHA) 

A.  MỞ-ÐỀ 

VÌ SAO PHẬT NÓI KHỔ-ÐẾ TRƯỚC VÀ TẬP-ÐẾ SAU? 

            Trong Khổ-đế, chúng ta đã thấy rõ những nỗi thống khổ của trần-gian.  Trước những nỗi khổ ấy, không ai là không nhàm-chán, ghê-sợ cho cuộc đời ở cảnh-giới Ta-bà nầy, và không ai có thể an tâm, điềm-nhiên sống trong cảnh ấy.  Nhiều câu hỏi liền nẩy ra trong đầu óc chúng ta: - Vì đâu sanh ra những nỗi khổ ấy?  Ta có thể thoát ra khỏi móng vuốt của chúng để sống ở một cảnh-giới đẹp-đẽ hơn chăng?  Vì thoát ra bằng cách nào? 

            Ðó là những câu hỏi mà đức Phật sẽ lần-lượt giải đáp một cách tường-tận ở ba phần: Tập, Diệt và Ðạo-đế. 

            Ngay trong phần Tập-đế nầy, đức Phật sẽ giải đáp câu hỏi thứ nhứt của chúng ta là nói rõ nguyên-nhân của đau-khổ. 

            Ðức Phật rất sành tâm-lý của chúng-sanh, nên mới nêu lên cái khổ trước rồi mới nói cái nhân sau.  Nếu vào ngay đầu Ngài nói: “Nầy các ngươi!  Hãy nghe ta nói rõ những nguyên-nhân sanh ra đau-khổ đây!”.  Nếu Ngài bảo như thế, chắc chúng ta sẽ không chú-ý nghe cho lắm, vì chúng ta, mặc dầu là sống trong bể khổ, nhưng vì mê-mờ, chúng ta có thấy một cách tường-tận và rùng-rợn tất cả những nỗi khổ của cảnh Ta-bà đâu?  Có nhiều khi chúng ta còn cho cảnh-giới nầy là vui nữa là khác.  Do đó, chúng ta không thiết-tha đi tìm nguyên-nhân phát-sanh đau-khổ.  Chỉ khi nào chúng ta đã ý-thức một cách sâu-sắc những nỗi khổ-sở của chúng ta, khi ấy chúng ta mới thấy sự băn-khoăn khẩn-cấp đi tìm đường tự giải cứu cho chúng ta.  Và muốn tự giải cứu, tất chúng ta cần tìm xem vì đâu có đau-khổ; như vị lương-y, muốn trị bệnh, trước phải tìm-hiểu nguyên-nhân sinh bệnh. 

            Nguyên-nhân sanh bệnh khổ-đau của chúng-sanh, đức Phật gọi là Tập-đế. 

B.  CHÁNH-ÐỀ:   

I.                   ÐỊNH NGHĨA 

Tập-đế:  Tập là chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên.  Ðế là sự-thật vững-chắc, đúng-đắn hơn cả.  Tập-đế là sự-thật đúng-đắn, vững-chắc về nguyên-nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích-trữ lâu đời, lâu kiếp trong mỗi chúng-sinh.  Ðó là sự-thật về cội-gốc của sanh-tử, luân-hồi, của bể khổ trần-gian. 

II.               NGUYÊN-NHÂN CỦA ÐAU-KHỔ LÀ NHỮNG GÌ ? 

Phật dạy:  Cội-gốc của sanh-tử luân-hồi do các phiền-não mê-lầm mà ra.  Phiền-não mê-lầm là những dục-vọng xấu-xa, những ý-niệm sai quấy, làm não-loạn thân tâm chúng ta. 

Phiền-não rất nhiều, nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn (84000), nói hẹp lại thì có mười phiền-não gốc, gọi là căn-bản phiền-não.  Do mười phiền-não gốc nầy mà sanh ra vô-số phiền-não ngành ngọn (nên xem cuốn Tu Tâm).  Mười phiền-não gốc là:

1.  Tham nghĩa là tham-lam.  Tánh tham có động-lực bắt ta phải dòm ngó, theo dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền-tài, danh-vọng, miếng ăn, chỗ ở v.v… rồi nói xui ta lập mưu nầy, chước nọ để xâm-chiếm cho được những thứ ấy.  Ðiều tai-hại nhất là lòng tham không có đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một muốn có mười, được mười muốn có trăm.  Tham cho mình chưa đủ, còn tham cho bà con quyến-thuộc mình, xứ-sở mình.  Cũng vì tham mà ăn không ngon, ngủ không yên; cũng vì tham mà cha mẹ vợ con xung-đột; cũng vì tham mà bè-bạn chia-lìa; cũng vì tham mà đồng-bào trở lại xung-đột, xâu-xé nhau; cũng vì tham mà chiến-tranh tiếp-diễn, giết-hại không biết bao nhiêu sinh-linh.  Tóm lại cũng vì tham mà nhân-loại, chúng-sinh chịu không biết bao nhiêu điều thống-khổ. 

Tham không những hại cho mình và cho người, trong hiện-tại mà cả tương-lai nữa. 

2.  Sân nghĩa là nóng-giận.  Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như lòng tham không được toại-nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta.  Thế là mặt đỏ tía hay tái xanh, bộ dạng thô-bỉ, nói-năng hung-dữ, có khi dùng đến võ-lực hay khí-giới để hạ kẻ làm trái ý, phật lòng ta.  Vì nóng-giận mà cha mẹ, vợ con, anh em xa-lìa, bạn bè ly-tán; vì nóng-giận mà đồng-bào trở nên thù-địch, nhân-loại đua nhau ra chiến-trường; vì nóng-giận mà kẻ bị tàn-tật, người vào khám đường, kẻ mất địa-vị, người tan sự-nghiệp.  Kinh Hoa-Nghiêm có nói: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”, nghĩa là: một niệm sân-hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp-chướng đều mở ra.  Sách cũng có nói: “Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công-đức chi sơn”, nghĩa là: một đóm lửa giận, có thế đốt hết muôn mẫu rừng công-đức.  Thật vậy, lửa sân-hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân-loại, và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu là công-lao, sự-nghiệp mà nhân-loại đã tốn bao nhiêu mồ-hôi và nước mắt để tạo nên. 

3.  Si nghĩa là si-mê, mờ-ám.  Si như là một tấm màn dày-đặc, đen-tối trùm lên trí-tuệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự-thật, phán-đoán được cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu.  Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội-lỗi, làm hại mình, hại người mà không hay.  Vì si, mà lòng tham trở thành không đáy, bởi vì nếu người ta sáng-suốt thấy cái tai-hại của tham, thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham.  Vì si mà lửa sân tự-do bùng cháy; nếu người ta sáng-suốt biết cái tai-hại của lửa sân thì người ta đã không để cho nó hoành-hành như thế.  Tổ-sư đã có nói: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì”.  Nghĩa là: Không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình giác-ngộ chậm.  Thật đúng như thế: Nếu tham, sân nổi lên, mà có trí sáng-suốt ngăn-chận lại, thì tham, sân không làm gì được.  Nói một cách rốt-ráo hơn, nếu đã có trí-tuệ sáng-suốt thì tham, sân không thể tồn-tại được, như khi đã có ánh mặt trời lên, thì bóng tối tất phải tự tan biến. 

Ba tánh tham, sân, si nầy, Phật gọi là ba món độc; vì do chúng nó mà chúng-sinh phải chịu nhiều kiếp sanh-tử luân-hồi, đọa và địa-ngục, ngạ-quỷ và súc-sinh. 

4.  Mạn nghĩa là tự nâng-cao mình lên và hạ người khác xuống; tự thấy mình là quan-trọng mà khinh-rẻ mọi người; ỷ mình có tiền-của, tài-trí hay quyền-thế mà dương-dương tự-đắc, mục hạ vô nhân, khinh người già cả, hỗn-láo với người đức-hạnh, chà-đạp người dưới, lấn-lướt người trên. 

Vì lòng ngã-mạn cho mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không nghe lời nói phải.  Do đó, làm nhiều điều lầm-lẫn sai-quấy, phước lành tổn giảm, tội-lỗi càng tăng, phải chịu sinh-tử luân-hồi không bao giờ cùng. 

Mạn có bảy thứ: 

a)   Mạn: hơn người ít, mà nghĩ mình hơn nhiều. 

b)      Ngã-mạn: ỷ mình hay giỏi mà lấn-lướt người.  

c)       Quá-mạn: mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng. 

d)      Mạn-quá-mạn: người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người. 

e)       Tăng-thượng-mạn: chưa chứng thánh-quả mà cho mình đã chứng. 

f)        Ty-liệt-mạn: mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít. 

g)      Tà-mạn: người tu về tà-đạo, được chút ít thần-thông, hoặc hiểu-biết được đôi chút việc quá-khứ, vị-lai, rồi khinh lướt người. 

5.  Nghi nghĩa là nghi-ngờ, không có lòng tin.  Người nghi-ngờ không làm nên được việc gì hết.  Ðối với người thân trong gia-đình, họ không tin-cậy giao-phó công-việc; đối với bạn-bè, họ nghi-ngờ tất cả mọi thiện-chí.  Ngay đối với mình, họ cũng không tự tin nữa.  Ðã không tự tin, họ còn gây hoang-mang cho người chung quanh, làm cho người ta ngã lòng, thối chí. 

Ðối với đạo-lý chân-chánh, họ cũng không hăng-hái tin theo.  Những pháp tu giải-thoát và các điều phước thiện, họ do-dự không làm. 

Nghi có ba phương-diện:

a)  Tự ghi là nghi mình.  Chẳng hạn nghe người ta bảo: “Tu-hành sẽ được giải-thoát”, nhưng lại tự nghi rằng: “Chẳng biết mình có tu được không?”.  Vì lòng do-dự nghi-ngờ ấy, nên không tu. 

b)  Nghi pháp nghĩa là nghi phương-pháp mình tu.  Chẳng hạn như nghe kinh Di-Ðà nói: “Người chí tâm niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày, được nhất tâm bất loạn đến khi lâm-chung sẽ được Phật Di-Ðà tiếp-dẫn sanh về nước Cực-lạc”; nhưng lại nghi rằng: “Phương-pháp ấy không biết có kết-quả đúng như vậy không”.  Do sự nghi-ngờ đó mà không tu. 

c)  Nghi nhơn nghĩa là nghi người dạy mình.  Như có người dạy rằng: “Làm lành sẽ được phước, làm ác sẽ bị tội”; nhưng lại nghi rằng: “Chẳng biết người nầy nói có thật không”.  Do sự nghi-ngờ ấy mà không làm. 

Tóm lại, tánh nghi-ngờ làm cản-trở sự tiến-triển của mình, ngăn-ngại mọi công-tác hữu-ích và làm cho cuộc đời không vượt ra khỏi cảnh tối-tăm khổ-sở. 

6.  Thân-kiến nghĩa là chấp thân ngũ-ấm tứ-đại giả hiệp nầy làm ta.  Vì cái chấp sai-lầm ấy, nên thấy có một cái Ta riêng-biệt, chắc thật, không biến-đổi, thấy cái Ta ấy là riêng của ta, không dính-dấp đến người khác và là một thứ rất quý-báu.  Vì tưởng lầm như thế, nên kiếm món ngon, vật lạ cho Ta ăn, may sắm áo quần tốt đẹp cho Ta mặc, lo xây-dựng nhà cao, cửa lớn cho Ta ở, thâu góp thật nhiều của-cải, đất ruộng để dành cho Ta dùng, kiếm công-danh, chức-tước, địa-vị cho Ta hãnh-diện với mọi người.  Do sự quý-chuộng phụng-sự cho cái Ta ấy, mà Ta tạo ra lắm điều tội-lỗi, chà-đạp lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ đau-khổ vì TA.  Và thế-giới trở thành một bãi chiến-trường thường-trực cũng vì thế 

7.  Biên-kiến nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành-kiến cực-đoan.  Biên-kiến có hai lối chấp sai-lầm lớn nhất là: 

a)  Thường-kiến nghĩa là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn-tại mãi: người chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh-nhơn chết trở lại làm thánh-nhơn.  Do sự chấp ấy, họ cho rằng tu cũng vậy, không tu cũng vậy, nên không sợ tội ác, không thích làm thiện.  Lỗi chấp nầy, đạo Phật gọi là “Thường-kiến ngoại-đạo”. 

b)  Ðoạn-kiến nghĩa là chấp rằng chết rồi là mất hẳn.  Ðối với hạng người chấp Ðoạn-kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn-tại nữa; tội cũng không mà phước cũng chẳng còn.  Họ không tin nhân-quả luân-hồi, nên mặc tình làm các điều tội-lỗi.  Họ tự bảo: “Tu nhơn tích đức già đời cũng chết; hung-hăng, bạo-ngược tắt thở cũng không còn”. 

Có người, trước những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chưyện tình duyên trắc-trở, tưởng rằng chết là hết đau-khổ, là giải-thoát tất cả, nên đã không ngần-ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu để kết-liễu đời mình.  Họ đâu có ngờ rằng chết rồi vẫn chưa hết!  Lối chấp nầy, kinh Phật gọi là “Ðoạn-kiến ngoại-đạo”. 

8.  Kiến-thủ nghĩa là chấp chặt sự hiểu-biết sai-lầm của mình. 

Kiến-thủ có hai phương-diện: 

a)  Kiến-thủ vì không ý-thức được sự sai-lầm của mình.  Hành-vi của mình sai quấy, ý-kiến của mình sai-lầm, nhưng vì không đủ sáng-suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thử hành-vi, ý-kiến của mình, tự cho là hay là giỏi, ai nói cũng chẳng nghe. 

b)  Kiến-thủ vì tự-ái hay vì cứng đầu.  Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là dở, nhưng vì tự-ái, cứ bảo thủ cái sai cái dở của mình, không chịu thay đổi.  Như ông bà trước đã lỡ theo tà-đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi không chịu đổi.  Họ cứ nói một cách liều lỉnh: “Xưa sao nay vậy”, hay “Xưa bày nay làm”.  Hay như cha mẹ trước đã lỡ làm nghề tội-lỗi, đến đời con cháu, vẫn cứ bảo thủ nghề ấy, không chịu thay nghề khác. 

Nói rộng ra trong thế-giới, có một số đông người, mặc dù thời-thế đã cải-đổi, tiến-bộ mà họ vẫn cứ giữ lại những lề thói, cổ tục hủ-bại mãi.  Chẳng hạn như ở Việt-Nam ta, đến bây giờ mà vẫn có những Phật-tử, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng-kiến, khi đưa đám tang, gánh theo những con heo quay to-tướng, đi biểu-diễn qua các đường phố; mỗi khi tuần-tự hay kỵ-giỗ, thì đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần kho phướng, mỗi năm phải hội-họp để cúng tà thần, ác quỷ v.v…  Chắp chặt những hủ-tục như thế, đều thuộc về “Kiến-thủ” cả. 

9.  Giới-cấm-thủ nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại-đạo tà-giáo.  Nhưng sự răn-cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê-muội, dã-man, không làm sao đưa người ta đến sự giải-thoát được, thế mà vẫn có nhiều người tin và làm theo.  Chẳng hạn như ở Ấn-độ, có phái ngoại-đạo lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm chỗ bẩn-thỉu, leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, hay nhảy xuống sông trầm mình để được phước.  Có đạo, mỗi năm lại bắt tín-đồ giết một người để tế thần, hay như đạo của anh chàng Vô-Não, phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay xâu làm chuỗi hạt mới đắc-đạo. 

Những thứ cuồng-tín như thế, không làm cho cuộc đời sáng-sủa, mà còn làm đen tối, khổ-đau thêm. 

10.  Tà-kiến nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn-chánh, trái với sự-thật, trái với luật nhân-quả.  Nói một cách khác, Tà-kiến nghĩa là mê-tín dị-đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v… 

Nói rộng ra, cả bốn chấp trên, đều thuộc về Tà-kiến cả.

III.  TÁNH-CHẤT CỦA MƯỜI MÓN CĂN-BẢN PHIỀN-NÃO 

            Tánh-chất của mười món phiền-não căn-bản không giống nhau: có thứ nhanh-nhẹn, có thứ chậm-chạp; có thứ mãnh-liệt, có thứ yếu-ớt; có thứ đâm sâu gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý-thức; có thứ dễ dứt-trừ, có thứ khó tiêu-diệt.  Vì tinh-chất không đồng ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh-từ khác nhau, để dễ phân-biệt, như Kiết-sử, Kiến-hoặc, Tư-hoặc… 

1.      Kiết-sử. 

Mười thứ phiền-não gốc: tham, sân, si, mạn, nghi, thân-kiến, biên-kiến, kiến-thủ, giới-cấm-thủ, tà-kiến cũng gọi là “Thập Kiết-sử”. 

Kiết là trói buộc; Sử là sai-khiến.  Mười phiền-não nầy gọi là Kiết-sử, vì chúng nó có mãnh-lực trói buộc loài hữu-tình không cho ra khỏi ba cõi và sai-sử chúng-sinh phải quay lộn trong vòng sanh-tử luân-hồi, từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao nhiêu điều khổ-não. 

Tuy đều có nhiều tánh-chất sai-sử, trói-buộc cả, nhưng mười Kiết-sử nầy có thứ mạnh, thứ yếu, thứ chạm-chạp, thứ mau-lẹ, nên đức Phật chia chúng ra làm hai thứ với hai tên gọi khác nhau là: Lợi-sử và Ðộn-sử 

a)      Lợi-sử là những món phiền-não rất lanh-lẹ, dễ sanh khởi mà cũng dễ trừ bỏ (lợi là lanh-lợi).  Lợi-sử gồm có năm là: Thân-kiến, Biên-kiến, Kiến-thủ, Giới-cấm-thủ, Tà-kiến. 

b)      Ðộn-sử là những món phiền-não nặng-nề, chậm-chạp, sanh khởi một cách ngấm-ngầm, xâu-xa, nhưng mãnh-liệt khó dứt-trừ (độn là chậm lụt).  Thuộc về Ðộn-sử gồm có năm phiền-nào là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi. 

Người học Phật muốn được giải-thoát, tất-nhiên phải chặt đứt mười thứ day nhợ, xiềng-xích nầy mới được. 

Trước khi muốn chặt đứt chúng một cách có hiệu-quả, phải hiểu rõ tánh-chất mềm hay cứng, bở hay dai của chúng để liệt chúng vào loại dễ chặt hay khó chặt.  Như người bửa củi, chia củi ra làm hai loại: loại dễ bửa và loại khó bửa; loại dễ bửa thì dùng búa gì, loại khó bửa thì dùng búa gì; cũng vậy, hành-giả trước khi muốn chặt dứt phiền-não, phải liệt chúng làm hai loại: loại Kiến-hoặc dễ trừ, và loại Tư-hoặc khó trừ. 

2.      Kiến-hoặc. 

Chữ Kiến-hoặc có hai nghĩa: 

a) Loại mê-lầm nầy mong-manh cạn-cợt, chỉ tu-hành đến địa-vị Kiến-đạo (thấy chân-lý) thì đoạn được. 

            b) Loại mê-lầm nầy thuộc về phần vọng-kiến (vọng chấp), phân-biệt của ý-thức đối với sự vô-thường, vô-ngã v.v… mà sinh ra; hay do lầm nghe theo lời khuyên dạy của tà-sư, ngoại-đạo mà sinh ra. 

            Nói một cách dễ hiểu hơn, Kiến-hoặc là cái lầm thuộc về mê lý, do vọng-chấp (chấp sai) phân-biệt của ý-thức sanh ra.  Ðến địa-vị Kiến-đạo là đoạn-trừ được cái hoặc nầy.  Bởi chúng nó dễ trừ, cũng như cỏ mọc khơi trên mặt đất, hễ rẫy (phác) thì hết, nên cũng gọi là “Phân-biệt hoặc” (nghĩa là cái lầm về phần phân-biệt của ý-thức).           

            Tóm lại, Kiến-hoặc hay Phân-biệt hoặc là do mê lý mà sanh, và sẽ bị diệt-trừ khi ngộ được chân-lý. 

            Mười phiền-não nói trên, hay Kiến-hoặc, nếu đem phối-hợp với bốn đế trong ba cõi, thì thành ra tám mười tám hoặc. 

            Ðể có một ý-niệm rõ-ràng hơn, chúng ta hãy phân-tách như sau: 

            Mười món Kiến-hoặc là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân-kiến, Biên-kiến, Kiến-thủ, Giới-cấm-thủ và Tà-kiến. 

            Trong ba cõi (Dục-giới, Sắc-giới, Vô-sắc-giới), mỗi cõi có bốn Ðế (khổ, tập, diệt, đạo), mỗi đế có các hoặc (mê lầm) chung hiệp lại thành tám mươi tám món Kiến-hoặc. 

            Như Dục-giới có bốn Ðế: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.  Khổ-đế có đủ mười hoặc.  Tập-đế và Diệt-đế chỉ có bảy hoặc (vì trừ Thân-kiến, Biên-kiến và Giới-cấm-thủ).  Ðạo-đế có tám hoặc (trừ Thân-kiến và Biên-kiến).  Bốn đế cộng thành ba mươi hai Kiến-hoặc. 

            Cõi Sắc và Vô-sắc cũng như Dục-giới, song ở trong đó mỗi đế đều trừ ra một món Sân (vì hai cõi nầy chỉ có vui trong thiền-định, nên chẳng có Sân) nên mỗi cõi chỉ có hai mươi tám hoặc.  Hai cõi hiệp lại thành năm mươi sáu hoặc; cộng với ba mươi hai hoặc ở cõi Dục nữa, tổng cộng thành ra tám mươi tám món Kiến-hoặc. 

            Dưới đây là biểu-đồ tám mươi tám món Kiến-hoặc: 

            88 KIẾN HOẶC 

I. - DỤC-GIỚI có 32 

1. - Khổ-đế: 10 – a. Tham, b. Sân, c. Si, d. Mạn, e. Nghi, f. Thân-kiến, g. Biên-kiến, h. Giới-cấm-thủ, i. Tà-kiến.

2. - Tập-đế: 7 – Như Khổ-đế, trừ Thân-kiến, Biên-kiến và Giới-cấm-thủ.

                        3. - Diệt-đế: 7 (như Tập-đế).

                        4. - Ðạo-đế: 8 - Trừ Thân-kiến và Biên-kiến.           

II. - SẮC-GIỚI có 28 

1. - Khổ-đế: 9 – Như Khổ-đế ở Dục-giới, trừ Sân.

2. - Tập-đế: 6 – Như Tập-đế ở Dục-giới, trừ Sân.

                        3. - Diệt-đế: 6 – Như Diệt-đế ở Dục-giới, trừ Sân.

                        4. - Ðạo-đế: 7 – Như Ðạo-đế ở Dục-giới, trừ Sân. 

            III. - VÔ-SẮC-GIỚI  có 28 

–  Như Khổ, Tập, Diệt, Ðạo ở Sắc-giới. 

            Sắc-giới và Vô-sắc-giới đều trừ Sân, là vì hai cõi nầy ở trong thiền-định, có hỷ có lạc, nên Sân không sanh-khởi. 

            Khổ-đế đủ mười hoặc là vì thuộc về Quả.  Tập-đế ít hơn (có 7) là vì thuộc về Nhân.  Diệt-đế là quả xuất-thế nên chỉ có 7.  Ðạo-đế về phần tu-hành nên chỉ có 8. 

            3.  Tư-hoặc. 

            Trong số mười phiền-não căn-bản nói trên, có bốn thứ ăn sâu gốc rễ từ vô-thỉ, rất khó diệt-trừ là Tham, Sân, Si, Mạn (bốn Ðộn-sử) thì gọi là Tư-hoặc.  Theo tân-dịch thì Tư-hoặc có hai nghĩa: 

            a)  Nó ngấm-ngầm khởi lên, do mê-muội về sự-vật mà sanh; như đối với sự-vật ăn, mặc, ở (sắc, thanh, hương, vị, xúc), sanh ra tham trước. 

            b)  Sự mê-lầm nầy phải đến địa-vị Tu-đạo mới dứt trừ được. 

            Chúng nó có từ vô-thỉ đến giờ, hễ có ta là có nó, nó với ta đồng sanh một lượt, nên cũng gọi là “Câu-sanh hoặc”.  Chúng nó tiềm-tàng sâu kín, và chi-phối sai sử chúng ta một cách mãnh-liệt, nên hành-giả phải gắng sức tu-trì, mới có thể lần-hồi trừ được.  Cũng như cỏ cú, phải ra công moi đào nhiều lần, mới nhổ sạch tận gốc. 

            Tóm lại, Tư-hoặc cũng có tên là Câu-sanh-hoặc, do mê sự mà sanh, và chỉ khi đến địa-vị Tu-đạo mới đoạn được. 

            Mười món nầy phối-hợp với bốn Ðế ở ba cõi sẽ thành tám mươi mốt món như sau: 

            Mười món Tư-hoặc 

Dục-giới có 4: Tham, Sân, Si, Mạn

Sắc-giới có 3: Tham, Si, Mạn

Vô-sắc-giới có 3: Tham, Si, Mạn 

            (Hai cõi sau, chỉ có trong cảnh thiền-định nên không có Sân). 

            Bốn thứ Tư-hoặc nầy lại chia ra làm ba hạng: hạng mạnh nhất là hoặc bậc thượng, hạng mạnh vừa là hoặc bậc trung, hạng bậc ít là hoặc bậc hạ.  Mỗi hạng như thế lại chia ra làm ba bậc hay phẩm nữa (thượng, trung, hạ), cộng tất cả thành ra chín phẩm. 

            (Xem đồ biểu 9 phẩm Tư-hoặc dưới đây). 

Mười thứ Tư-hoặc chia làm chín phẩm           

I.  Thượng

            1. - Thượng thượng.

2. - Thượng trung.

                        3. - Thượng hạ. 

            II.   Trung

                        1. - Trung th ư ợng.

                        2. - Trung trung.

                        3. - Trung h ạ. 

            III.  Hạ

                        1. - Hạ thượng.

2. - Hạ trung.

                        3. - Hạ hạ.  

            Chín phẩm Tư-hoặc nầy, nhân cho ba cõi (gồm 9 địa) thành 81 thứ.           

            (Xem biểu-đồ 81 món Tư-hoặc dưới đây). 

            8 CÕI 

            I.  Dục giới           

                        1.  Ngũ thú tạp-địa cư có                             - 9 phẩm Tư-hoặc 

            II.  Sắc giới           

                        2.  Sơ-thiền, ly sanh hỷ lạc địa                               - 9 phẩm Tư-hoặc

                        3.  Nhị-thiền, định sanh hỷ lạc địa                        - 9 phẩm Tư-hoặc

                        4.  Tam-thiền, ly hỷ diệu lạc địa                            - 9 phẩm Tư-hoặc

                        5.  Tứ-thiền, xả niệm thanh-tịnh địa                      - 9 phẩm Tư-hoặc 

            III.  Vô-sắc giới 

                        6.  Không vô-biên xứ địa                            - 9 phẩm Tư-hoặc

                        7.  Thức vô-biên xứ địa                               - 9 phẩm Tư-hoặc

                        8.  Vô sở-hữu địa                                          - 9 phẩm Tư-hoặc

                        9.  Phi phi-tưởng xứ địa                               - 9 phẩm Tư-hoặc 

                        Cọng :             9 địa                           Thành : 81 phẩm Tư-hoặc 

IV.  TÓM-TẮT Ý-NGHĨA VỀ KIẾN-HOẶC VÀ TƯ-HOẶC 

            Nói tóm lại, những cái mê-lầm thuộc về phân-biệt (do ý-thức phân-biệt mà sanh) đều thuộc về Kiến-hoặc.  Những cái mê-lầm thuộc về phần câu-sanh (ngấm-ngấm cùng với ta đồng sanh) thì thuộc về phần Tư-hoặc. 

            Lại một nghĩa nữa, những cái mê-lầm thuộc về phần mê lý, đến khi kiến-đạo là đoạn trừ, thì gọi là Kiến-hoặc.  Những cái mê-lầm thuộc về phần mê sự, phải tu-hành đến địa-vị tu đạo, mới lần lần đoạn trừ, thì gọi là Tư-hoặc.  Ðoạn Kiến-hoặc là chỉ mới hết cái lầm trên phương-diện kiến-thức; đến khi đoạn Tư-hoặc thì luôn cả cái lầm trên phương-diện ý-thức, hành-vi đều không còn nữa. 

            Ðoạn 88 cái lầm về Kiến-hoặc và 81 cái lầm về Tư-hoặc thì sẽ chứng được bốn quả thánh Thanh-văn của Tiểu-thừa, trong đó quả-vị cao nhất là quả A-la-hán (xem phần chú-thích). 

C.  KẾT-LUẬN: 

            Sở-dĩ chúng-sinh chịu các điều khổ não, nguyên-nhân là do phiền-não gây tạo ra các nghiệp Tập-đế.  Tập-đế gồm có nhiều thứ phiền-não, nhưng có mười thứ căn-bản phiền-não là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân-kiến, biên-kiến, kiến-thủ, giới-cấm-thủ và tà-kiến. 

            Trong 10 món nầy, vì căn-cứ theo bản-tánh của những cái dễ phát sinh và dễ trừ là năm món sau, thì gọi là Ngũ-lợi-sử; còn năm món trước, tánh nó ngấm ngầm phát sanh và khó đoạn trừ thì gọi là Ngũ-độn-sử. 

            Ðứng về phương-diện tu chứng mà xét, thì hành-giả trong khi tu-hành, chia 10 món phiền-não trên làm hai loại, để đoạn trừ trong thời-kỳ: 

            1. - Những cái mê lầm khi thấy đạo (chân-lý) mới đoạn được, thì gọi là Kiến-hoặc. 

            2. - Những cái mê lầm khi đến địa-vị Tu-đạo mới đoạn được thì gọi là Tư-hoặc.

            Về Kiến-hoặc, ở cõi Dục-giới có 32 món mê lầm, ở cõi Sắc-giới 28 và Vô-sắc-giới cũng có 28, cộng lại thành 88 món mê lầm.  Cái lầm ở cõi Dục rất thô, đến cõi Sắc và Vô-sắc-giới thì vi-tế hơn.  Ðoạn được 88 thứ Kiến-hoặc trong ba cõi, thì chứng đặng quả thánh thứ nhất trong bốn quả của Tiểu-thừa là Tu-đà-hoàn (Tàu dịch là Dự-lưu).  Ðến quả nầy, 81 phẩm Tư-hoặc của ba cõi vẫn chưa đoạn trừ. 

            Về Tư-hoặc, thì cõi Dục-giới có 4: tham, sân, si, mạn.  Cõi Sắc-giới và Vô-sắc, mỗi cõi có ba (vì trừ sân).  Cộng chung lại là 10 món Tư-hoặc.  Vì chúng có thô và tế không đồng nên phân ra có thượng, trung, hạ phẩm.  Mỗi phẩm lại phân ra ba phẩm nữa là: Thượng, trung, hạ cọng thành 9 phẩm. 

            Trong ba cõi có chia ra làm 9 địa; mỗi địa có 9 phẩm Tư-hoặc từ thô đến tế, cọng chung 9 địa thành ra 81 phẩm Tư-hoặc (1). 

            Chín phẩm Tư-hoặc ở cõi Dục thì rất thô, còn hai cõi trên lần lần vi-tế.  Các thứ phiền-não Tư-hoặc vi-tế đây, chiêu cảm với những khổ-quả sanh-tử, luân-hồi trong ba cõi.  Nếu các sự mê-lầm nầy đoạn hết, thì dứt được sanh tử trong ba cõi, chứng quả A-la-hán. 

PHẦN PHỤ CHÚ 

            Tứ-đế là thuộc giáo-lý Tiểu-thừa.  Trong khi nghiên-cứu, trung thành với giáo-lý nầy, chúng tôi chỉ kẻ có hai thứ hoặc là: Kiến-hoặc và Tư-hoặc. 

            Nhưng theo giáo-ly Ðại-thừa, thì ngoài hai hoặc trên, còn có hai thứ hoặc khác nữa là Trần-sa-hoặc và Vô-minh-hoặc.  Nếu muốn chứng quả Ðại-thừa Bồ-tát, thì phải đoạn trừ hai hoặc sau nầy. 

            Ðể có một ý-niệm tổng-quát về các thứ hoặc, chúng tôi xin phụ-chú dưới đây hai loại hoặc ấy: 

            1.  Trần-sa-hoặc:           

            Trần-sa-hoặc là cái mê-lầm như cát bụi.  Cái mê-lầm này không phải của mình, vì khi chứng được quả A-la-hán thì cái mê-lầm về phần Kiến-hoặc và Tư-hoặc nơi cá-nhân mình đã hết.  Cái chơn-trí ở nơi tâm mình đã được sáng-suốt rồi.  Nhưng so với mình, còn thấy cái mê-lầm của chúng-sinh nhiều như cát bụi, nên sanh tâm chán-ngán, thối chí độ sanh, cứ trầm không thu tịch, thủ cảnh thiên, không Niết-bàn của Tiểu-thừa, không chịu ra hóa đạo độ sanh (vì còn pháp-chấp, mê-lầm thấy thật có pháp mình tu, Niết-bàn mình chứng).           

            2.  Vô-minh-hoặc:

            Vô-minh là mê-lầm không rõ được bản-chất chơn-tâm.  Thứ mê-lầm nầy là gốc của các thứ mê-lầm, nên gọi là căn-bản vô-minh.  Nó rất vi-tế, phá-trừ Trần-sa-hoặc rồi mới phá-trừ được Vô-minh-hoặc. 

            Cứ theo lối tu-chứng của Ðại-thừa mà luận, thì phải trải qua 52 địa-vị, mới phá vỡ được hết vô-minh.  Khi mãn địa-vị Thập-tín rồi, bắt đầu lên Thập-trụ (10 vị) phá một phần Vô-minh thì được một phần của ba đức Pháp-tánh (3 đức: Pháp-thân, Bát-nhã, Giải-thoát), chứng lên vị Sơ-trụ.  Như thế, cứ phá thêm một phần vô-minh là chứng lên một địa-vị, cho đến phá được 10 phần thì được Thập-trụ.  Bước qua Thập-hạnh (10 vị).  Thập hồi-hướng (10 vị) và Thập-địa (10 vị) cũng thế, nghĩa là phá một phần vô-minh thì chứng lên một địa-vị.  Cho đến địa-vị thứ 51 là Ðẳng-giác, dùng trí Kim-cương phá sạch hết tướng vô-minh rất vi-tế, rồi thì chứng được địa-vị thứ 52 là quả Diệu-giác (Phật).  Lúc bấy giờ vô-minh diệt hết, trí-giác toàn minh, cũng như trăng rằm Trung-thu, bao nhiêu mây mờ vẹt hết, toả ánh sáng chiếu khắp cả mười phương. 

            Chúng ta nên lưu ý: Kiến-hoặc, Tư-hoặc là chiêu-cảm phần đoạn sanh-tử trong ba cõi.  Còn Trần-sa và Vô-minh-hoặc thì chiêu-cảm biến-dịch sanh-tử ngoài ba cõi.  Ðoạn Kiến-hoặc, Tư-hoặc thì không thọ phần-đoạn sanh-tử, ra ngoài Tam-giới, được lý thiên-chơn, chứng Nhị-thừa: Thanh-văn, Duyên-giác.  Ðoạn Trần-sa-hoặc, chứng quyền thừa Bô-tát.  Ðoạn từng phần vô-minh thì chứng pháp-tánh Bồ-tát.  Ðoạn sạch vô-minh chứng quả Phật vô-thượng.  Xét như thế thì từ khi phát tâm tu-hành cho đến thành Phật, phải trải qua một công-trình lớn lao và một thời-gian lâu xa mới được. 

_________________ 

(1)   Sở-dĩ gọi là phẩm mà không gọi là món, loại hay thứ là vì trong mỗi mê-lầm ấy, không khác chất, chỉ khác phẩm lượng mà thôi, nghĩa là nó đậm hay nhạt, mạnh hay yếu mà thôi.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ III )
DIỆT ÐẾ
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712