Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Lục Hòa

LỤC HÒA

 A.  MỞ-ÐỀ: 

            1. - Tai hại của sự bất hòa: 

            Trong sự sống chung đụng hằng ngày, không có gì tai hại bằng sự bất hòa.  Sự bất hòa làm ung độc cuộc sống chung và bắt buộc người ta phải xa nhau, nếu không muốn ở gần nhau để làm khổ cho nhau. 

            Trong gia-đình, anh em không hòa, thì tình cốt nhục chia ly.  Vợ chồng không hòa, thì gia nghiệp chẳng thành, con cái phải bị đau khổ, vì gần cha thì phải xa mẹ; gần mẹ thì phải xa cha.  Xóm làng không hòa thì hay sinh ra rầy rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau.  Quốc-gia không hòa thì sanh ra giặc-giả loạn-lạc, dân chúng khổ sở.  Nhân-loại bất hòa, thì chiến tranh tiếp diễn, nhân sinh điêu-đứng, suy tàn.  

2. - Sự quan-trọng của nhu-hoà: 

            Ðã thấy sự bất hòa nguy hiểm như thế nào, tất-nhiên cũng phải thấy đức-tánh nhu-hòa là cần-thiết như thế nào cho đời sống tập-thể. 

            Chúng ta thường nghe nói: “Dĩ hòa vi quý” (lấy hòa làm quý).  Bốn chữ giản-dị ấy có một công dụng ích lợi vô cùng.  Những ai lấy nó làm phương-châm, thì bất luận việc lớn việc nhỏ đều thành-tựu dễ-dàng.  Trái lại, những ai kinh thường nó, thì công việc chung không bao giờ có kết quả. 

            Sách Nho cũng có nói: “thời thế thuận, không bằng địa thế lợi; địa thế lợi, không bằng nhân tâm hòa” (thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa).  Xem thế thì đủ biết: yếu-tố hòa là quan-trọng hơn hết trong mọi việc, mọi tổ chức.  Gia-đình hòa thì gia-đình có hạnh-phúc; nước nhà hòa thì nước nhà được thạnh trị; nhơn-loại hòa thì thế-giới an lạc. 

            Hiểu biết hơn ai hết sự quan trọng của đức tánh nhu hòa trong đời sống tập thể, đức Phật đã chế ra pháp “Lục-hòa” cho hàng Phật-tử. 

B.  CHÁNH-ÐỀ: 

I.                   ÐỊNH NGHĨA 

Lục-hòa là sáu phương-pháp cư-xử với nhau cho hòa-hợp từ vật-chất đến tinh-thần, từ lời nói đến việc làm.  Hòa ở đây là hòa với mục-đích tiến tới sự cao đẹp, đến con đưòng giải-thoát, toàn thiện toàn mỹ, chứ không phải hòa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói phải cũng gật.  Hòa ở đây cũng không phải là một phương-tiện trong giai đoạn để rút thắng lợi về mình, rồi lại chiến.  Hòa ở đây nhắm mục-đích làm lợi cho tất cả, gây hạnh-phúc cho tất cả, trong ấy không có bóng-dáng “tự và tha”, không có so-đo “ta và người”. 

II.                LỤC-HÒA LÀ NHỮNG GÌ ? 

Lục-hòa gồm có sáu điểm sau đây: 

1.      Thần hòa cùng ở  (Thân hòa đồng trú): 

Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà trong một phạm-vi, một tổ-chức, hôm sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành. 

Khi đã sống chung đụng hằng ngày như thế, thì phải hòa thuận với nhau, không dùng sức mạnh, võ lực để lấn hiếp, đánh đập nhau.  Nếu là anh em, vợ chồng, con cái trong một gia-đình, thì phải trên thuận dưới hòa, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn-xộn vô trật-tự, hiếp đáp, sát pật nhau. 

Nếu là Phật-tử, cùng ở với nhau học tập dưới một mái chùa, thì tuy là không phải ruột thịt, nhưng cũng là những người con chung của đức Phật, cùng một lý-tưởng mục-đích, thì cũng phải lấy cái hòa-khí làm đầu, không được chia phe phái, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, mạnh ai nấy được. 

Nếu là đồng-bào, cùng chung sống trong một quốc-gia xã-hội, thì phải lấy sự đoàn-kết làm đầu, không được gây cảnh nồi da xáo thịt, chia năm xẻ bảy, làm thành giặc chòm, giặc xóm, sát phạt nhau, chém giết nhau.  Người nước ta có câu ca-dao rất có ý nghĩa: 

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” 

            Khác giống, mà sống chung trên một giàn, còn phải hòa thuận thương yêu nhau; huống chi là cùng một dân-tộc, giống-nòi ! 

            Cũng thế, đã là nhân-loại, cùng chung sống trên quả địa-cầu này, thì dù là da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng là “tứ hải giai huynh đệ” cả.  Ðã là giống người như nhau mà lại đem nhau ra chiến trường bắn giết nhau, tàn sát nhau, làm mồi cho súng đạn vô tri, thì thật là vô cùng phi lý. 

            Tóm lại, đã cùng chung sống với nhau trong một địa-vị, một giới-hạn, một hoàn-cảnh, thì bao giờ cũng phải hòa hảo với nhau.

2.      Lời nói hòa hiệp, không tranh cãi nhau: 

Muốn thân không đánh đập nhau, không đối chọi nhau, khi ở bên cạnh nhau, thì lời nói phải giữ gìn cho được ôn-hòa nhã-nhặn; trong mọi trường hợp, nhất thiết không được rầy rà, cãi cọ nhau. 

Có người thân hòa mà khẩu không hòa, ăn thua nhau từng câu nói, tìm cách mỉa mai, châm thọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng một, cuối cùng sanh ra ẩu đả nhau. 

Trong một gia-đình, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi anh em xa lìa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không thấy mặt nhau, trở thành những kẻ xa-lạ, thù hằn nhau. 

Trong xã-hội, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi quốc-gia phải lâm nạn chiến-tranh, nhân-loại phải bị đẩy vào lò sát sanh thảm khốc. 

Bởi thế, nên thân thể hòa chưa phải là đủ, mà Phật dạy phải hòa cả miệng nữa.   Nghĩa là người Phật-tử phải nói lời dịu dàng, hòa nhã với nhau, nhất thiết không được cãi lẫy, gây gỗ nhau.  Nếu có gì thắc-mắc, cần phải bàn cãi cho ra lẽ, thì tuyệt-đối phải dùng lời ôn-tồn, hòa-nhã mà bàn luận. 

3.      Ý hòa cùng vui  (Ý hòa đồng duyệt): 

Duy-thức-học có nói: Ý là hệ trọng hơn hết, nó là động cơ thúc đẩy miệng và thân: Kể công thì nó đứng đầu, mà kết tội, nó cũng đứng trước (công vi thủ, tội vi khôi).  Bởi thế cho nên, trong một gia-đình, một đoàn thể, mỗi người cần phải giữ gìn ý tứ, tâm địa của mình.  Nếu ý tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được hòa-khí.  Trái lại, nếu ý tứ bất hòa, thường trái ngược nhau, ganh ghét nhau, thì thân và khẩu khó mà giữ cho được hòa hảo.  Dù có cố-gắng bao nhiêu, để thân và khẩu được hòa khí, hay vì sợ một uy quyền gì ở trên, mà phải ăn ở hòa thuận với nhau, thì sự hòa thuận này cũng chẳng khác gì một lớp sơn đẹp-đẽ, tô lên một tấm gỗ đã mục.  Một khi sự xung đột bên trong đã đến một mức-độ không thể chứa đựng được nữa, tất nó sẽ nổ tung ra trong lời nói hay trong những cái đấm đá; cũng như tấm gỗ khi đã quá mục rồi thì thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn nức, đổ bể. 

Ðức Phật đã thấu rõ như thế, nên Ngài dạy phải có tâm ý vui vẻ, hòa hiệp trong khi chung sống với nhau. 

Muốn được tâm ý hòa hiệp, phải tu hạnh hỷ-xả.  Hỷ-xả nghĩa là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt trong lòng những lỗi lầm của kẻ khác.  Có như thế, tâm hồn mới thư thái, vui vẻ được, và ý nghĩ mới trong sáng, thanh-tịnh được.  Vậy Phật-tử chúng ta hãy cố gắng tu hạnh hỷ-xả mới được. 

4.      Giới hòa cùng tu  (Giới hòa đồng tu): 

Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật-tự, tất đều có giới luật qui cũ hẳn hoi. 

Trong đạo Phật, mỗi Phật-tử, tùy theo địa vị cấp bực tu hành của mình, mà thọ lãnh ít hay nhiều giới luật.  Người tại-gia thì thọ ngũ-giới; người xuất-gia thì thọ 10 giới nếu là Sa-Di, thọ 250 giới nếu là Tỳ-kheo, thọ 348 giới nếu là Tỳ-kheo Ni v.v... 

Khi Phật-tử hội họp lại, hay khi cùng chung sống để tu học, mỗi người tùy theo cấp bực của mình mà giữ giới.  Ðã cùng một cấp bực với nhau, thì tất phải thọ giới và giữ giới như nhau, chứ không được lộn xộn, giữ giới này, bỏ giới kia, giữ giới kia, bỏ giới nọ, mỗi người mỗi thứ.  Nếu có sự vô kỷ luật này thì lẽ tất-nhiên tổ-chức ấy sẽ tan rã.  Vì thế, đức Phật dạy: khi Phật-tử đã chung sống với nhau, thì triệt để phải cùng nhau tu những giới luật như nhau, giữ đúng những giới luật của cấp bực mình. 

Nói rộng ra, trong một trường học, một gia-đình Phật-tử, một hội chẳng hạn, bao giờ cũng lấy kỷ luật làm đầu.  Trong trường, nếu học sinh không giữ kỷ-luật của trường, ai muốn ra cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai muốn học cứ học, ai muốn chơi cứ chơi, thì trường ấy ắt phải sập.  Trong gia-đình Phật-tử, đoàn sinh mỗi người mỗi làm theo mỗi ý riêng mình, không tuân năm điều luật của Gia-đình, không làm theo huấn lệnh của Huynh-trưởng, thì gia-đình Phật-tử ấy sẽ tan-rã.  Trong một hội, hội viên không tôn trọng điều lệ của hội, phân chia giai-cấp, tự cho mình sang không cần giữ giới như người hèn, tự cho mình giàu, không giữ giới như người nghèo, tự cho mình có học thức không giữ giới như người vô học; nếu có tình trạng như thế, tất hội ấy sẽ tan rã. 

Nói tóm lại, trong mọi đoàn-thể, đạo hay đời, nếu không cùng nhau gìn giữ giới điều, kỷ-luật, quy-tắc, thì chúng ta không bao giời sống chung với nhau được.  Vậy Phật-tử, muốn hòa hợp cùng nhau để tu tập, thì mỗi người cần phải gìn giữ giới luật như nhau. 

5.      Thấy biết giải bày cho nhau hiểu  (Kiến hòa đồng giải): 

Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều gì, khám phá được điểm gì, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu.  Như thế trình độ hiểu biết mới không chênh-lệch, sự tu học mới tiến đều và tinh-thần bình-đẳng, mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn-thể.

Khi ta khám phá được một gì mới lạ, hay có một ý-kiến gì hay ho, nếu ta không giải bày cho người chung quanh, thì không những ta là một kẻ ích-kỷ, mà còn tạo ra một sự tắc-nghẹn giữa sự thông-cảm với những người khác.  Lòng ích-kỷ và sự tắc-nghẹn ấy là mối dây của sự chia rẽ, bất hòa, xung đột.  Trước một vấn-đề, mỗi người sẽ nghĩ, sẽ thấy mỗi cách, và do đó, sẽ gây nghi ngờ, hoang-mang trong đoàn-thể, vì phần đông không biết tin vào ai. 

Nhất là trong kinh sách Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu, vừa đủ loại, mỗi Phật-tử có thể khám-phá ra một khía cạnh khác nhau, tìm ra một ý nghĩ có thể đúng, mà cũng có thể sai.  Trong những trường hợp ấy, mà không gấy rút giải bày quan điểm, ý kiến của mình cho mọi người trong đoàn thể hiểu biết, thì khó mà có thể sống hòa hiệp với nhau. 

6.      Lợi hòa cùng chia cân nhau  (Lợi hòa đồng quân): 

Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cân nhau hay cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về mình. 

Trong khi sống chung, nếu có người đem cho vật thực, y phục, mền chiếu thuốc thang v.v... thì phải đem quân phân tất cả, nghĩa là chia cho đều nhau, không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu, nhưng phải lấy công bằng làm trọng.  Giữ được như thế, thì dù ở chung nghìn người cũng vẫn hòa vui.  Trái lại, nếu vì tình tư, ý riêng tham tài ham lợi thì dù chỉ có vài ba người chung sống với nhau, cũng không thể hòa được. 

Trong xã-hội sở dĩ có sự xung đột dữ dội, phân chia giai cấp, cũng do vì thiếu sự “lợi hòa đồng quân” cả.  Người giàu thì quá giàu, kẻ nghèo thì nghèo xơ, kẻ dinh thự nguy nga, ruộng đất cò bay thẳng cánh, có kẻ không có một chòi tranh vách đất.  Do đó, không thể có hòa-bình được: người vô sản xung đột với kẻ hữu sản, nước nghèo đói sanh sự với nước phú cường. 

Nếu nhân-loại thâm hiểu rằng: cuộc giàu sang phú quý trong nhân gian, như hạt sương đọng trên cành hoa, công danh vinh hiển trên đời, như bọt nước nổi trên mặt biển, thì chắc sự chênh lệch giữa giàu và nghèo sẽ bớt đi nhiều lắm, và nhân-loại sẽ bớt xung đột nhau hơn. 

Với một tinh-thần bình-đẳng lợi-tha, từ-bi cứu-khổ, với một trí-huệ soi thấu rõ sự vô-thường, giả tạm của cuộc đời, Ðức Phật đã dạy: “Có tài lợi, nên tùy phận chia sớt cho nhau”, hay triệt để hơn nữa: “Lợi hòa đồng quân”. 

Vậy chúng ta đã là Phật-tử, phải nên cố gắng thực hành cho được lời dạy ấy.

C.  KẾT-LUẬN: 

            Ðể có một ý niệm tổng-quát về Lục-hòa, chúng ta hãy ôn lại một lần nữa, những ý chính trong 6 điều chỉ bảo của đức Phật.           

            1)  Hãy chung sống với nhau một cách hòa hợp, hãy chung lưng đâu cật, đùm bọc nhau, chứ không nên dùng võ lực để đàn áp nhau. 

            2)  Hãy nói-năng với nhau một cách dịu-dàng, hòa-nhã; nếu có điều gì thắc-mắc cần bàn cãi, thì cũng phải bàn cãi trong ôn-hòa, lễ độ. 

            3)  Hãy nuôi dưỡng ý tốt đẹp đối với nhau, hãy trau dồi đức hỷ-xả; đừng bao giờ thù hiềm, ganh tỵ nhau. 

            4)  Hãy giữ đúng giới luật như nhau, hãy lấy kỷ-luật làm đầu.  Vô kỷ-luật thì không một đoàn thể nào có thể tồn-tại được. 

            5)  Hãy giải bày những sự hiểu biết, những ý kiến của mình cho người chung quanh.  Người thông hiểu nhiều, phải có bổn-phận chỉ bày cho người hậu tiến và dắt dẫn họ đi kịp mình. 

6)     Hãy chia đồng đều tài lợi thu thập được cho những người chung sống chung quanh mình, để mọi ngưòi đều được thỏa mãn, vui vầy.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ II )
TỊNH ĐỘ
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712