Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Bổn Phật Của Phật Tử Tại Gia

BỔN-PHẬN CỦA PHẬT-TỬ TẠI-GIA

(VIẾT PHỎNG THEO KINH THIỆN-SANH)

A.    MỞ ÐỀ: 

1.  Người đời ai cũng có bổn phận. 

Người ta sanh ra trên hoàn-vũ nầy, ai cũng có bổn-phận.  Nói một cách tổng-quát, thì đã có cái danh, tất phải có cái phận.  Con kiến, con ong, có cái phận của kiến, của ong; mặt trăng, mặt trời, có cái phận của mặt trăng mặt trời.  Dù nhỏ dù lớn, mọi vật, mọi người đều có cái phận riêng của mình.  Những điều cần phải làm, đối với cái thân phận ấy, chính là bổn-phận. 

Danh càng lớn, thì phận càng nghiều; phận càng nhiều thì bổn-phận càng nặng.  Hễ có thêm một cái danh, là thêm một bổn-phận.  Càng nhiều danh lại càng nhiều bổn-phận…  Người có bổn-phận của người; nhưng khi người + làm quan, tất nhiên ngoài bổn-phận người, có thêm bổn-phận làm quan, (bổn-phận người + bổn-phận quan).  Và nếu người làm quan ấy lại là quan đầu tỉnh, (người + quan + đầu tỉnh) thì tất nhiên ngoài hai bổn-phận trên, còn thêm bổn-phận cai-trị cả tỉnh nữa (bổn-phận người + bổn-phận quan + bổn-phận cai-trị cả tỉnh).  Nếu muốn có nhiều danh, mà lại muốn trút bớt bổn-phận, thì là gian lận, lừa bịp.  Và khi ấy, cái danh ấy chỉ là hư danh.  Và khi danh đã hư, thì mọi việc đều hư cả.  Cho nên ngày xưa, đức Khổng-Tử nêu lên thuyết “Chính danh” để chỉnh đốn xã-hội là vì thế. 

2.       Người Phật-tử tại-gia lại có nhiều bổn-phận hơn ai cả. 

Dựa trên lý-luận mà suy diễn, chúng ta thấy bổn-phận của người Phật-tử tại-gia thật là nặng-nề.  Cái danh của chúng ta gồm có đến năm chữ: Người + Phật-tử + tại-gia.  Như thế, tất nhiên chúng ta có những bổn-phận của người + bổn phận của Phật-tử + bổn-phận tại-gia.  Ðó là chưa kể người Phật-tử tại-gia ấy còn có những cái danh khác như: Công-chức, Giáo-sư, Tỉnh-trưởng v.v…  Nhưng để cho vấn-đề nầy khỏi đi vào chi tiết quá; dưới đây chúng ta chỉ nói đến bổn-phận người Phật-tử tại-gia mà thôi.  Nhưng nếu muốn vấn-đề được đặt một cách sáng-sủa, giản-dị, và sát đề hơn nữa, chúng tôi đề nghị nên bỏ bớt chữ người nữa.  Nghĩa là chúng ta sẽ không nói đến bổn-phận của người ở đây; bổn-phận ấy mọi người, vì đã là người, đều biết cả rồi (trong mọi sách luân-lý, công-dân đều có nói đến). 

Như thế dưới đây, chúng tôi chỉ xin đề-cập đến “bổn-phận của Phật-tử tại-gia” mà thôi. 

B.     CHÁNH ÐỀ:

Bổn-phận của người Phật-tử tại-gia là những gì? 

Phật là một bậc toàn trí, toàn năng, toàn đức, đã dứt sạch ngã-chấp, pháp-chấp tất cả việc lành gì cũng làm được, nên công-đức được đầy đủ và Phật đã biết rõ các phép đều tuân theo luật nhân quả, nên bao giờ cũng chỉ biết gieo nhân lành, làm việc lành. 

Phật-tử, muốn được làm con Phật, muốn theo dấu chân Phật, muốn xứng-đáng với danh-từ Phật-tử, tất phải làm tròn bổn-phận của Phật-tử, nghĩa là nghe những lời Phật đã dạy, làm theo những việc Phật đã làm, đi theo con đường Phật đã đi. 

Phật-tử, đáng lẽ, phải làm y như thế đó.  Nhưng bởi vì chúng ta là Phật-tử tại-gia, nên chưa có thể hoàn toàn theo đúng như Phật.  Hai chữ tại-gia ràng-buộc chúng ta trong những bổn-phận mà chúng ta phải làm tròn. 

Do đó, Phật-tử tại-gia, có những bổn-phận như sau: 

-          Bổn-phận đối với tự thân.

-          Bổn-phận đối với gia-đình, quyến-thuộc.

-          Bổn-phận đối với người ngoài gia-đình. 

I.  BỔN-PHẬN ÐỐI VỚI TỰ THÂN           

            Tu tâm dưỡng tánh…  Ngoài bổn-phận làm người cho xứng với danh nghĩa con người, cho tròn nhân-cách, Phật-tử còn luôn luôn cố-gắng trau dồi đức hạnh, tu tâm dưỡng tánh, để cho thân tâm được an lạc, thanh-tịnh, hầu hưởng được hạnh-phúc trong hiện-tại và bước lên đường giải-thoát trong tương lai. 

            Mỗi Phật-tử phải luôn luôn cố gắng vượt lên khỏi kiếp người, vượt ra ngoài lục đạo.  Chúng ta từ vô-thỉ đến nay, vẫn sống say chết ngủ trong trường giả danh mộng huyễn, luân-hồi đã nhiều đời nhiều kiếp mà chúng-sanh cũng hoàn lại là chúng-sanh.  Ngày nay, chúng ta may nhờ phúc báo đời trước, được làm học trò Phật, mắt được trông vào quyển kinh, tai được nghe Phật-pháp, cũng như đêm tối sẵn có đèn, trong bể khổ gặp thuyền tế-độ.  Nếu chúng ta không gắng sức tu tập, dứt bỏ những thói quen mê-lầm phiền-não, để cho tâm tánh chúng ta được tiến-hóa dần đến chỗ hoàn toàn viên mãn, thì sao cho khỏi phụ duyên lành đời trước của chúng ta và phụ công ơn đức Thích-Ca, đấng Từ-phụ đã hiện thân thuyết pháp, chỉ bày cho chúng ta những phương-pháp tu hành để thoát khỏi sanh tử luân hồi.  Phương-pháp tu hành mà một Phật-tử tại-gia cần phải quyết tâm thực hiện là: giữ Ngũ-giới, tu Thập-thiện, sám trừ các phiền-não, chuyên tâm niệm Phật, phát tâm từ-bi tế-độ.  Có như thế thì chúng ta mới có thể vượt ra khỏi kiếp người, bước thêm một bước dài trên con đường giải-thoát. 

II.  BỔN-PHẬN ÐỐI VỚI GIA-ÐÌNH QUYẾN-THUỘC 

            Phật-tử tại-gia còn có gia-đình quyến-thuộc, nên còn nhiều bổn-phận không thể làm ngơ được.  Phật-tử có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái, bà con thân thích, người giúp công hay kẻ mướn việc…  Ðối với mỗi hạng người ấy, Phật-tử đều có mỗi cách đối xử, mỗi bổn-phận. 

            Theo kinh Thiện-sanh, thì Phật-tử tại-gia có những bổn-phận như sau đối với những người trong nhà: 

1)      Bổn-phận con đối với cha mẹ, phải đủ 5 điều: 

a)  Làm con phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, tùy theo mùa tiết hàn, nhiệt, mà chăm nom mền chiếu, ấm mát hợp  thời, để cha mẹ được nghỉ ngơi yên giấc. 

b)  Làm con mỗi ngày phải dậy sớm, để phân công việc cho người làm lụng đúng giờ, và lo sắp đặt miếng ăn thức uống cho cha mẹ được vừa miệng đẹp lòng. 

c)  Làm con phải gánh vác tất cả công việc nhọc-nhằn, thay thế cho cha mẹ, để cha mẹ được thư thới, vui vẻ trong tuổi già. 

d)  Làm con phải nhớ nghĩ luôn luôn đến ơn sanh thành, dưỡng dục, để lo báo đáp cho kịp trong lúc cha mẹ còn sanh tiền. 

e)  Làm con, khi cha mẹ đau ốm, phải hết lòng săn sóc, hầu hạ bên giường, không nài khó nhọc và ân-cần rước thầy xem mạch, thuốc thang điều-trị không sợ hao tốn. 

2)      Bổn-phận cha mẹ đối với con, cũng phải đủ 5 điều: 

a)  Phải dạy dỗ con dứt trừ tất cả điều hung ác, làm tất cả điều lành, để trở nên người có đức hạnh. 

b)       Phải khuyên răn con cái, nên gần-gũi người trí-huệ. 

c)       Phải nhắc nhỡ con cái, cần mẫn học hành. 

d)      Phải liệu định cưới gả con cái cho kịp lúc xuân thời.

e)       Phải cho con cái bàn tính tham dự việc nhà, cùng góp công trong sự xây-dựng hạnh-phúc gia-đình. 

3)      Bổn-phận vợ đối với chồng, phải đủ 5 điều: 

a)  Phải kính yêu và hoà-thuận với chồng, khi chồng ra đi hay trở về, phải đưa đón niềm-nở. 

b)       Khi chồng đi vắng, ở nhà phải lo quét dọn, may vá, cơm nước sẵn sàng, đợi chồng về mới cùng ăn uống. 

c)       Phải giữ gìn tiết hạnh, không được ngoại tình. 

d)      Lúc chồng nóng giận nặng lời, không nên bừng mặt cãi lẫy, làm mất hòa-thuận và có khi phải rả-rời giềng mối.  Lại khi chồng có lời khuyên-bảo chánh đáng, vợ phải vâng theo; khi có món ngon vật quý, không nên dùng riêng một mình. 

e)       Mỗi đêm, khi chồng ngủ rồi, phải xem xét cửa-nẻo, trước sau đóng gài kín đáo, cắt đặt cẩn-thận, soi rọi khắp cả trong nhà, rồi mới đi ngủ. 

4)      Bổn-phận chồng đối với vợ, cũng phải đủ 5 điều: 

a)  Khi vợ ra đi hay lúc trở về, phải đưa đón niềm-nở. 

b)       Phải ăn uống cho có giờ khắc, và đừng quá khó khăn, để vợ khỏi phải phiền lòng nấu-nướng không chừng, và lo lắng cực nhọc. 

c)       Phải tùy phận giàu nghèo của mình, để vợ mua sắm áo quần và đồ trang-sức vừa theo sở thích, không hẹp lòng làm vợ buồn phiền. 

d)      Phải tin cậy phó thác cho vợ các công việc nhà. 

e)       Không được sanh tâm tà vậy, sớm mận tối đào, làm cho vợ ghen tương sầu não. 

5)      Bổn-phận đối với bà con thân-thích, phải có đủ 5 điều: 

a)  Khi thấy bà con có người làm việc chẳng lành, thì phải thương xót khuyên can, răn-nhắc. 

b)       Trong bà con thân-thích, có người nào bị đau ốm, tai nạn, tật-nguyền, thì phải hết lòng giúp đỡ, hoặc cơm cháo thuốc men, hoặc áo quần, tiền bạc v.v… 

c)       Những việc kín-đáo, riêng-tư của người nầy, mình có biết cũng không nên tiết-lộ cho người khác biết. 

d)      Bà con thân-thích, phải năng tới lui thăm viếng, nhắc nhở nhau tránh dữ làm lành.  Ðôi khi có ý kiến chẳng đồng, cũng nên hoan-hỷ, đừng cố-chấp giận hờn nhau. 

e)       Trong thân bằng quyến thuộc, có kẻ giàu người nghèo, lẽ cố-nhiên người dư ăn dư để, phải giúp-đỡ cho kẻ thiếu hụt. 

6)       Bổn-phận chủ đối với người giúp việc trong nhà, phải có đủ 5 điều: 

a)  Chủ nhà trước khi sai khiến người giúp việc làm gì, trước phải biết họ, đói, no, ấm, lạnh thế nào, để họ có đủ sức khoẻ và vui lòng làm lụng. 

b)       Lúc nào người giúp việc bị bịnh hoạn, phải chăm nom thuốc thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi bổ sức khoẻ lại. 

c)       Khi họ có phạm lỗi gì, phải xét coi họ cố-ý hay vô tình.  Nếu vô ý lầm-lỡ, thì nên dung thứ; nếu học quyết lòng phá hại, thì phải nghiêm-trách hẳn hòi, với lời lẽ thanh nhã, cho họ biết lỗi để chừa. 

d)      Khi họ tiện tặn tích góp được số tiền riêng, không nên tìm cách thâu đoạt. 

e)       Khi muốn thưởng công lao cho họ, phải giữ mực công-bình, tùy công lao của mỗi người mà phân chia cho cân xứng. 

7)      Bổn-phận người giúp việc đối với chủ nhà, cũng phải đủ 5 điều: 

a)  Mỗi buổi sáng phải thức dậy trước chủ nhà, không đợi kêu. 

b)       Phải biết phần việc nào của mình làm mỗi ngày, cứ y như thường lệ mà thi-hành, không đợi chủ sai bảo. 

c)       Khi làm việc phải thận-trọng đồ dùng của chủ, không làm vụt chạc, hư hao. 

d)      Phải hết lòng kính mến chủ nhà, lúc chủ nhà ra đi, phải ân cần đưa tiễn, lúc chủ trở về, phải vui mừng tiếp đón. 

e)       Không nên chỉ trích, nói xấu chủ với người ngoài. 

III.  BỔN-PHẬN ÐỐI VỚI NGƯỜI NGOÀI GIA-ÐÌNH 

            Những người ngoài gia-đình, chúng tôi muốn nói ở đây, không phải những người xa-lạ, hay hàng xóm láng giềng, mà chính là những người có sự liên-quan mật-thiết với chúng ta, nhưng không cùng quyến thuộc, không ở chung dưới một mái nhà, nên tạm gọi là những người ngoài gia-đình. 

            Những người nầy giữ một vai trò quan-trọng trong đời sống của chúng ta, lái chúng ta đi trên con đường hiểu biết đạo-đức, góp một phần lớn-lao trong việc xây-dựng hạnh-phúc cho chúng ta.  Ðó là những vị thầy dạy-dỗ và những vị Tăng-già và thiện hữu tri-thức. 

1)      Bổn-phận học-trò đối với thầy phải đủ 5 điều: 

a)  Phải kính mến thầy như cha mẹ. 

b)       Phải vâng lời thầy dạy bảo. 

c)       Phải giúp đỡ thầy trong cơn hoạn-nạn. 

d)      Phải siêng-năng học-tập cho vui lòng đây. 

e)       Khi thôi học rồi, cũng phải năng tới lui thăm-viếng thầy, để tỏ lòng cảm-mến công ơn dạy-dỗ và quý trọng tài đức của Thầy. 

2)      Bổn-phận thầy đối với học-trò, cũng phải đủ 5 điều: 

a)  Phải cần-mẫn dạy-dỗ học-trò. 

b)       Phải cố-gắng làm sao cho học-trò mình mau tiến bộ hơn học-trò khác, về tài-năng cũng như về đức-hạnh. 

c)       Phải để ý đến những điều cần-yếu làm sao cho học-trò in sâu mãi vào tâm trí. 

d)      Phải giảng giải rõ ràng các lý-thuyết mắc-mỏ và hỏi đi hỏi lại nhiều lần cho học-trò không lầm lạc. 

e)       Phải có lòng rộng-rãi, mong muốn làm sao cho học-trò mình được trở nên giỏi hơn mình. 

3)      Bổn-phận Tín-đồ đối với chư Tăng và thiện hữu tri-thức phải có đủ 5 điều: 

a)  Phải hết lòng thành thật đối với chư Tăng và thiện hữu tri-thức. 

b)       Phải cung kính và vâng lời dạy bảo của quý vị minh-sư và các thiện hữu. 

c)       Phải chăm-chỉ nghe lời giảng dạy của các vị Tăng-già đức-độ, thẩm xét cho kỷ-lưỡng rồi như pháp mà tu-hành. 

d)      Phải cầu học với chư Tăng và thiện-hữu những chỗ bị yếu về đạo-lý mà mình chưa hiểu. 

e)       Phải cầu thỉnh các vị minh-sư chỉ dạy cho mình những pháp-môn cần yếu, như “tham-thiền” “niệm Phật” để ngày đêm chuyên tâm tu trì, không gián đoạn. 

IV.  Cách xưng hô và nhỮng nghi-thỨc cẦn-thiẾt cỦa ngưỜi tẠi-gia: 

Ngoài những bổn-phận nói trên, Phật-tử tại-gia còn cần phải biết cách xưng-hô khi tiếp-xúc với quý vị tăng-già, và những nghi-thức cần thiết khi đến chùa, khi lễ Phật, cầm kinh v.v…  Ðã là Phật-tử, thì những điều này, mặc dù là hình thức, cũng không thể không biết đến. 

1.  Cách chào hỏi và xưng-hô đối với Tăng-già. 

a)  Khi gặp một vị hay nhiều vị tăng tại chùa hay ngoài đường, nên chắp tay kính-cẩn chào, bằng cách niệm: “Nam-mô A-Di Ðà Phật”, với vẻ mặt hoan hỷ, làm cho mọi người cũng đều hoan-hỷ với mình.  Lối chào ấy biểu-lộ một tình-cảm đậm-đà, còn hơn lối chào bắt tay của người Âu-tây.  Sở dĩ chào nhau bằng một câu bảo-hiệu Phật, là để nhắc rằng ai cũng có Phật-tánh (bản-tánh A-Di-Ðà), nếu quyết chí tu, rồi cũng đến được cảnh giới Tịnh-độ và cuối cùng sẽ thành Phật. 

b)  Về cách xưng-hô, Phật-tử tại-gia không nên kêu chư tăng bằng Huynh hay Sư-huynh hay Ðạo-hữu mà nên kêu bằng thầy, mặc dù vị ấy là đồng sư. 

Những tiếng Thượng-tọa, Ðại-đức không nên quá lạm dụng, không phải đối với vị nào cũng gọi là Thượng-tọa hay Ðại-đức được cả.  Chỉ đối với những vị có đạo-hạnh, nhiều niên lạp (tuổi Ðạo), và đối với mình chưa quen thân lắm, mới nên dùng chữ Thượng-tọa hay Ðại-đức.  Ðối với các vị Bổn-sư, các vị Tăng-già mình thường quen biết, dùng chữ “Thầy” là phải cách và đầy đủ ý nghĩa nhất.  Thầy là có ý tôn kính như cha (quân, sư, phụ) và là người thường dạy bảo mình trên đường tu tập.  Thầy có vẻ vừa tôn kính, vừa thân mật, vừa chân thật, chứ không như chữ Thượng-tọa hay Ðại-đức có vẻ xã-giao kiểu-cách, đãi-bôi, bề ngoài.  Hiện nay đang lan tràn cái dịch, dùng danh-từ Thượng-tọa và Ðại-đức.  Chúng ta nên thận-trọng mỗi khi dùng những chữ ấy, để khỏi bị người ngoại-đạo hiểu lầm là quí vị Tăng-già muốn được gọi như thế, vì còn thích chức tước, hư danh. 

2.  Nghi-thức khi đến chùa, lúc hành lễ. 

a)  Trước khi vào Chánh-điện lễ Phật, phải rửa mặt, súc miệng, rửa tay cho sạch sẽ, để giày guốc ngoài thềm cửa, đừng mang vào Ðiện mà tổn phước.  Khi tiến tới Ðiện thì đi ở phía trái, khi ra thì đi về phía hữu, theo cánh “hữu nhiễu” của nhà Phật (đi quanh theo chiều hữu, ba hay bảy vòng, để tỏ lòng kính mến Phật). 

Khi đi ra, phải chú ý coi chừng dưới chân, để tránh khỏi sự dẫm đạp trùng kiến.  Giữ được như thế, được phước đức hơn là phóng-sinh mà không biết giờ. 

b)  Khi tụng kinh, phải chắp hai tay ngang ngực, mười ngón tay từng cặp bằng nhau, không so le, hai lòng bàn tay khít lại, đừng để trống giữa.  Chân đứng ngang bằng, mình chữ “bát”, mắt ngó xuống, chăm-chỉ tụng cho có câu rành-mạch, không nên ỷ giọng hay, tụng to tiếng động chúng.  Phải tụng cho ăn nhịp, theo tiếng mõ và tiếng tụng của ông Duy-na (dẫn đầu). 

Khi lễ Phật, năm vóc phải sát đất, nghĩa là đầu, hai tay, hai gối, phải sát chiếu, hết lòng thành kính mà lễ.  Khi lạy phải xích qua một bên, vì phía sau thường có chùa thờ Hộ-pháp hay tượng Phật và nhường chỗ cho ngôi Trụ-trì.  Khi lễ Phật xong, đi ra phải bước lui, mắt ngó tượng Phật, đừng quay lưng lại. 

3.  Nghi-thức lúc cầm kinh, lúc đi đứng. 

            Trước khi cầm kinh xem hay tụng, phải rửa tay.  Cầm kinh sách đem đi đâu, nên ôm trên ngực, đừng cặp bên nách như quyển sách thường, vì kính kinh như kính Phật.  Nếu cầm kinh mà muốn chào người, thì phải để kinh trên bàn trước khi chào.  Gặp trường hợp không có chỗ để kinh, thì ôm vào ngực mà chào: “A-Di-Ðà Phật” là được.  Kiêng nhất là cầm quyển kinh mà xá chào người. 

C.    KẾT LUẬN: 

Khuyên Phật-tử tại-gia giữ tròn bổn-phận.

Bổn-phận của Phật-tử tại-gia như vừa trình bày ở trên tuy kể ra thì nhiều, nhưng không có gì là cao-kỳ khó-khăn phức tạp.  Những điều ấy, một người chưa phải là Phật-tử, nhưng có chút đức hạnh, cũng đã hiểu rồi, biết rồi. 

Nhưng điều quan-trọng ở đây, không phải là hiểu biết mà là thực-hành, những điều đã hiểu biết ấy.  Trong cuộc sống tầm thường hằng ngày, làm tròn bổn-phận có nhiều khi còn khó hơn là ra trận giết quân thù, hay trèo non lội suối.  Những công việc khó khăn nhưng bất thường nầy chỉ cần vận-dụng sự cố-gắng và hăng-hái trong một khoảng thời-gian nhất định, chứ những bổn-phận tầm thường hằng ngày, muốn làm cho tròn, phải vận dụng sự kiên-nhẫn và cố-gắng suốt cả đời.  Vì lý do ấy mà tục ngữ ta có câu: “thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”. 

Vậy chúng ta không nên xem thường những bổn-phận tầm thường hằng ngày của chúng ta, mà phải luôn luôn cố gắng làm cho tròn.  Sự cố gắng nầy sẽ đem lại cho chúng ta một phần thưởng chắc thật là đưa dần chúng ta lên đường giải-thoát.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ II )
VU LAN BỒN
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712