Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật

TỤNG KINH, TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT 

A.  Mở Ðề 

            Người Phật-tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật thì cũng chưa có thể được gọi là thuần-thành.  Người Phật-tử thuần-thành còn phải tụng kinh, trì-chú và niệm Phật.  Vả lại, nếu bỏ qua ba cái phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên-dung cả Sự và Lý được.  Vì phần lý là phần cao-siêu khó thực-hành, mà nếu chúng ta không tụng kinh niệm Phật để cho tâm-hồn được sáng-suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu-xa huyền-diệu trong kinh-điển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về lý là : Phát trí thanh-tịnh lễ, biến nhập pháp-giới lễ, chánh-quán lễ, thật-tướng bình-đẳng lễ, và năm món diệu-hương để cúng Phật là : giới-hương, định-hương, huệ-hương, giải-thoát-hương, giải-thoát tri-kiến hương.  Và nếu không thực-hành được 4 phép lạy về lý và cúng-dường được 5 món diệu-hương, thì sự lạy và cúng chỉ còn có phần “Sự” là phần hình-thức; và vì thế, kẻ tín-đồ khó có thể tiến được trên đường đạo.  Bởi vậy, cùng một lần với thờ, lạy, cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, trì-chú và niệm Phật.  Ðó là những điểm căn-bản tối thiểu mà một Phật-tử thuần-thành không thể bỏ qua được. 

B.  Chánh Ðề 

I.                   ÐỊNH-NGHĨA 

1.      Tụng kinh: 

Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm-điệu và thành kính.  Tụng kinh là đọc một cách thành-kính những lời đức Phật đã dạy trong kinh-điển, hợp với chân-lý và căn-cơ của chúng-sanh.

2.      Trì-chú: 

Trì là nắm giữ một cách chắc chắn.  Chú là lời bí-mật của chư Phật mà chỉ có chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồ-tát cũng không thể hiểu thấu.  Các bài chú đều có oai-thần và công-đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp-chướng, tiêu-tai giải nạn và tăng-trưởng phước-huệ, nên cũng gọi là thần-chú. 

3.      Niệm Phật: 

Niệm là tưởng nhớ.  Niệm Phật là tưởng nhớ danh-hiệu Phật, hình dung Phật và đức-hạnh của Phật, để luôn luôn cố-gắng nối theo bước chân Ngài. 

II.                LÝ-DO PHẢI TỤNG KINH, TRÌ CHÚ VÀ NIỆM PHẬT 

1.      Vì sao phải tụng kinh? 

Chúng ta sống tron cõi dục, cho nên lòng dục-vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho nên trong giấc ngủ, cũng còn chiêm-bao cãi lẫy, cười khóc, vui buồn như lúc thức.  Trong cảnh mê-mờ đầy dục-vọng ấy, may thay, đức Phật đã vì thương-xót chúng-sanh mà truyền dạy những lời vàng ngọc có thể phá tan màn mây u-ám của vô-minh và tội-lỗi.  Nhưng những lời lẽ cao-siêu ấy chúng ta nghe qua một lần, hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được.  Cho nên chúng ta cần phải đọc đi đọc lại mãi mãi để cho lý nghĩa thâm-huyền được tỏa ra, và ghi khắc trong thân tâm chúng ta, không bao giờ quên được.  Ðó là lý-do khiến chúng ta phải tụng kinh. 

2.      Vì sao phải trì-chú? 

Chú có công-năng phi-thường, nếu người thành tâm trì-chú, thì được nhiều hiệu-lực không thể tưởng-tượng.  Chẳng hạn, thần chú “Bạt nhứt thế nghiệp-chướng căn-bổn đắc sanh Tịnh-độ đà-la-ni” có hiệu-lực tiêu trừ hết gốc rễ nghiệp-chướng, làm cho người được vãng-sanh về Tịnh-độ.  Thần chú “Tiêu-tai kiết tường” có hiệu-lực làm cho tiêu trừ các hoạn-nạn, tai-chướng, được gặp những điều lành.  Thần-chú “Lăng-Nghiêm” thì phá trừ được những ma-chướng và nghiệp báo nặng-nề v.v… Thần chú “Chuẩn-đề” trừ tà, diệt quỷ.  Thần-chú “Thất Phật diệt tội” có công-năng tiêu-trừ tội-chướng của chúng ta từ nhiều đời kiếp v.v… 

3.      Vì sao phải niệm-Phật? 

Tâm chúng ta bị vô-minh làm mờ đục, chẳng khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục.  Muốn cho nước đục kia hóa ra trong, không có phương-pháp nào hay hơn là gia một chút phèn vào, thì các chất nhơ bẩn ngầu đục kia dần dần lóng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch. 

Phương-pháp niệm Phật cũng vậy, có công-năng phá trừ các vọng-niệm đen tối ở nội tâm của chúng ta, làm cho tâm mê-muội, mờ ám trở nên sáng-suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước đục trở nên trong vậy. 

Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê-muội trở nên trong-sáng?  – Vì lý do rất dễ hiểu sau đây : 

Tâm của chúng ta rất điên-đảo, không bao giờ dừng nghỉ.  Kinh thường nói : “Tâm viên, ý mã”, nghĩa là tâm lăng-xăng như con vượn nhảy từ cành này sang cành khác, và ý như con ngựa chạy lung-tung luôn ngày suốt buổi.  Làm sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng-bậy ?  Chỉ có một cách là bắt nó nhớ nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp.  Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến những vị hoàn-toàn tốt đẹp, những hành-động trong sáng, những đức tánh thuần-lương.  Càng niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm Ma chừng ấy.  Ma ở đây là tất cả những gì xấu-xa đen tối, làm mình hại người.  Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật. 

III.             PHẢI THƯỜNG TỤNG NHỮNG BỘ KINH NÀO, TRÌ CHÚ GÌ VÀ NIỆM DANH HIỆU PHẬT NÀO ? 

1.      CÁC KINH THƯỜNG TỤNG 

Phàm là Kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được cả, vì kinh nào cũng có công-năng thù-thắng là phá trừ mê-mờ, khai mở tâm trí sáng-suốt cho chúng-sanh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. 

Nhưng vì căn-cơ của chúng-sanh không đều, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh đều, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích-hợp với căn-cơ và sở nguyện của chúng ta mà tụng đọc. 

Thông thường, các Phật-tử Việt-Nam, từ xuất-gia cho đến tại-gia đều trì-tụng những kinh như : Di-đà, Hồng-danh, Vu-lan, Phổ-môn, Dược-sư, Ðịa-tạng, Kim-cang, Lăng-nghiêm, Pháp-hoa v.v… 

Nhiều người lại có quan-niệm chọn bộ kinh cho thích-hợp, với mỗi hoàn-cảnh mỗi trường-hợp để tụng, như lúc : 

a)      Cầu-siêu thì tụng kinh Di-đà, Ðịa-tạng, Vu-lan v.v…

b)      Cầu-an thì tụng kinh Phổ-môn, Dược-sư…

c)      Cầu tiêu-tai và giải bịnh, tụng kinh Kim-cang, Lăng-nghiêm…

d)     Cầu sám-hối thì tụng Hồng-danh. 

Cái quan-niệm chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất, sẽ được hiệu nghiệm hơn.  Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo-lý cũng như về mặt công-đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí-tâm trì-tụng, thì kết-quả cũng đều được mỹ-mãn như nhau cả. 

2.      CÁC CHÚ THƯỜNG TRÌ 

Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa tụng khuya, trì-chú Lăng-nghiêm, Ðại-bi, Thập-chú hoặc Ngũ-bộ chú v.v… Còn ở nhà, phần nhiều cư-sĩ chỉ trì-chú Ðại-bi và Thập-chú, bởi hai lẽ : một là thời-gian ít-ỏi, vì còn phải lo sinh sống cho gia-đình ; hai là chú Lăng-nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm-vận trắc-trở khó đọc, khó thuộc.  Nhưng nếu cư-sĩ nào có thể học hết các thần-chú, trì-tụng được như chư Tăng thì càng tốt. 

3.      CÁC HIỆU PHẬT THƯỜNG NIỆM 

Ðức Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn-giác, từ-bi vô-lượng, phước-trí vô-biên, thương chúng-sanh vô cùng tận, nên chỉ niệm danh-hiệu một đức Phật nào cũng đều được cảm-ứng đến tất cả chư Phật, công-đức cũng đều vô-lượng vô-biên. 

Nhưng đứng về phương-diện trình-độ và hoàn-cảnh mà luận, thì hiện nay, chúng ta là người ở thế-giới Ta-bà, nhằm quốc-độ của đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni giáo-hóa, lẽ cố nhiên chúng ta phải niệm danh-hiệu của Ngài.  Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm-quyền chánh-trị sáng-suốt ở trong nước đó. 

Nếu tín-đồ nào tu theo pháp-môn Tịnh-độ, thì thường ngày phải niệm danh-hiệu đức Phật A-di-đà.  Pháp-môn này thành-lập do lời dạy sau đây của đức Phật Thích-ca : “Ở còi thế-giới Ta-bà này, đến thời-kỳ mạt-pháp, cách Phật lâu xa chỉ có pháp “trì-danh niệm Phật, cầu vãng-sanh về Tây-phương Cực-lạc là quốc-độ của đức Phật A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn hết”. 

Ngoài ra, tín-đồ cũng có người niệm hiệu đức Phật Di-Lặc, để cầu sanh về cõi trời Ðâu-suất; hoặc niệm danh-hiệu đức Phật Dược-sư để cầu cho khỏi tật-bịnh. 

Tóm lại, tín-đồ Phật-giáo phải niệm đủ Tam-thế Phật : 

a)      Niệm đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, là niệm đức Phật hiện-tại, mà cũng là đức Phật giáo-chủ của chúng ta.

b)      Niệm đức Phật A-Di-Ðà, là niệm đức Phật đã thành từ quá-khứ xa-xưa, mà cũng là đức Phật tiếp-dẫn chúng ta về Cực-lạc. 

c)      Niệm đức Phật Di-Lặc, là niệm đức Phật vị-lai. 

IV.             LỢI ÍCH CỦA SỰ TỤNG KINH TRÌ CHÚ VÀ NIỆM PHẬT 

1.      LỢI-ÍCH CỦA SỰ TỤNG KINH  

Những lời giáo-hóa trong 3 tạng kinh-điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành sáng-suốt do lòng từ-bi và trí-huệ siêu-phàm của Phật nói ra.  Kinh Phật, vì thế, có phần siêu-việt hơn tất cả những lời lẽ của thế-gian.  Nếu chúng ta chí-tâm trì tụng, chắc-chắn sẽ được nhiều lợi-ích cho mình, cho gia-đình và những người chung quanh: 

a)      Cho mình:  Lúc tụng niệm, hành-giả đem hết tâm trí chí-thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ-xuất, nên sáu căn : tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý đều thâu nhiếp lại một chỗ.  Chăm lo tụng kinh nên ba nghiệp của thân, khẩu, ý không còn móng khởi lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lẽ phải. 

b)      Cho gia-đình:  Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời, và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán.  Trong gia-đình nhờ thế được thanh-tịnh, trang-nghiêm, hòa-thuận. 

c)      Cho người chung quanh:  Trong những lúc đem thanh cảnh vắng, lời tụng kinh trầm bổng theo với tiếng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân-nga, có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ý-nghĩa thâm-huyền, những lời khuyên đầy bổ ích, chứa đựng trong kinh-điển mà hành-giả đang tụng. 

Như vậy rõ-ràng tụng kinh chẳng những có ích-lợi cho mình, cho gia-đình, mà còn cho những người chung quanh nữa.  Ðó là mới nói những điều lợi ích thông-thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi-ích, linh-nghiệm lạ thường không thể giải-thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi. 

2.      LỢI-ÍCH CỦA SỰ TRÌ-CHÚ  

Các thần-chú tuy không thể giải-nghĩa ra được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công-hiệu thật là kỳ-diệu, khó có thể nghĩ bàn như người uống nước ấm, lạnh thì tự biết lấy. 

Có thể nói : một câu thần-chú, thâu gồm hết một bộ kinh, vì vậy, hiệu-lực của các thần chú rất phi-thường.  Khi gặp tai-nạn, nếu thực tâm trì-chú thì mau được giải nguy.  Như thuở xưa, ngài A-Nan mắc nạn, đức Phật liền nói thần-chú Lăng-nghiêm, sai ngài Văn-Thù Sư-Lợi đến cứu, thì ngài A-Nan liền được thoát nguy. 

Ngày nay, cũng có nhiều trường-hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rõ-ràng.  Theo lời Bác-sĩ Thiện-Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn-ly, Bác-sĩ ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung-Việt.  Một lần Bác-sĩ bị chứng bịnh nan y, mặc dù lương-dược Ðông, Tay sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được.  Bác-sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người sơn-cước, không ngời nhớ lại lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ trì-chú “Công-đức Bảo-sơn”, Bác-sĩ liền đem thần-chú ấy ra áp dụng.  Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cùng xúm lại hộ-niệm cho Bác-sĩ suốt đêm.  Sáng hôm sau, quả thật Bác-sĩ lành mạnh một cách dễ-dàng, làm cho tất cả các bạn đồng-nghiệp đều ngạc nhiên. 

3.      LỢI-ÍCH CỦA SỰ NIỆM-PHẬT  

Niệm Phật công-đức lại còn to lớn hơn nữa vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả ba tạng giáo-điển, hết thảy thần-chú, cùng là pháp viên-đốn; như tham-thiền, quán-tưởng v.v… 

Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni có dạy rằng : “Sau khi Phật nhập diệt đã lâu, về thời-kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết chỉ còn kinh Di-Ðà lưu truyền lại được một thời gian rồi cũng diệt luôn.  Lúc bấy giờ chỉ còn một câu niệm Phật gồm sáu chữ “Nam mô A-Di-Ðà Phật”, mà đủ năng-lực đưa chúng sanh về cõi Cực-lạc”. 

Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân-vật chuyên trì một câu niệm Phật này mà biết được ngày giờ và thấy điềm lành trước khi vãng-sanh.  Như ngài Tổ Huệ-Viễn, trong mười năm niệm Phật, ba lần thấy đức A-Di-Ðà rờ đầu ; trong hội Liên-xã, có 123 người chuyên tu phép “Trì danh niệm Phật”, đều lần lượt được Phật rước về cõi Tịnh-độ.  Gần đây, ở Nam-phần Việt-Nam vào năm 1940 có ba vị sĩ-quan Pháp là Ðại-úy Touffan, Trung-úy Retourna, Thiếu-úy Brillant đồng cỡi một chiếc thủy phi-cơ, bay từ đảo Côn-lôn về Saigòn.  Giữa đường, chiếc phi-cơ hư, rơi xuống biển.  Thiếu-úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu.  Chiếc thủy phi-cơ lững đững trên mặt biển suốt ba giờ đồng hồ, mới gặp được chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến cứu.  Khi ba vị sĩ-quan vừa bước sang tàu, thì chiếc thủy phi-cơ chìm ngay xuống biển.  Ai nấy đều làm lạ, hỏi nhau : - Tại sao khi nảy có 3 người ngồi nặng, phi-cơ nổi, mà bây giờ không người, nó lại chìm ngấm ?

Chỉ có Thiếu-úy Brillant là giải-thích được sự lạ-lùng ấy.  Ông kể lại cho mọi người nghe sự linh ứng của phép niệm Phật mà ông thường áp dụng, và lần này là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật ấy, Ðại-úy Touffan và Trung-úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến Saigòn, hai vị sĩ quan ấy chung nhau một số tiền cất một cái am đẹp đẽ ở Cát-lái, làng Thạch-Mỹ-Lợi tỉnh Gia-định để thờ Phật, gọi là tỏ lòng tri ân. 

C.  Kết Luận 

KHUYÊN PHẬT TỬ TỤNG KINH, NIỆM PHẬT VÀ TRÌ CHÚ

CẢ SỰ LẪN LÝ CHO ÐƯỢC VIÊN-DUNG

            Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 3 phương-pháp tu-hành gồm đủ cả Sự và Lý.  Dù tại-gia hay xuất-gia, dù tiểu-thừa hay đại-thừa, tiêu-cực hay tích-cực, không ai có thể rời ba phương pháp này được.  Bởi thế, Phật-tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì-chú cho Sự, Lý đi đôi, lời nói và việc làm phù-hợp, mới có được kết-quả tốt đẹp. 

            Ba pháp-môn tụng kinh, trì-chú và niệm Phật, tuy không đồng mà kết-quả đều thù-thắng.  Phật-tử có thể tùy theo trình-độ, hoàn-cảnh của mình mà tu một, hai, hay cả ba pháp ấy.  Thí-dụ như người biết chữ và mạnh-khỏe, công ăn việc làm hằng ngày không bận-rộn lắm thì nên tụng kinh, trì-chú, niệm Phật đủ cả 3 pháp môn.  Còn người tuổi già sức yếu, mắt lờ, răng rụng, miệng lưỡi phều-phào, thân-thể mỏi mệt, nếu tụng kinh trì-chú không nổi, thì phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng đều niệm Phật. 

            Nhưng các Phật-tử nên nhớ, khi tụng kinh, trì-chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm-trí phải gội rửa hết bao nhiêu ý nghĩ bất-chính, những ham muốn đê-hèn, và đặt vào đấy hình ảnh của đấng  Từ-bi.  Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát-nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất cả.  Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành-động của mình cũng được từ-bi như tư-tưởng và lời nói của mình vậy. 

            Người tụng kinh trì-chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc-chắn sẽ được quả Thánh không sai.

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ I )
ĂN CHAY
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712