Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > GIÁO DỤC PHẬT GIÁO
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 15/10/2008 (GMT+7)

TÁC DỤNG GIÁO DỤC CỦA NGÔI CHÙA

TÁC DỤNG GIÁO DỤC CỦA NGÔI CHÙA

Từ khi Đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam thì chùa chiền cũng hiện diện khắp nơi, đáp ứng nhu cầu truyền giáo, nhu cầu tín ngưỡng, tinh thần của nhân dân. Từ đó, ngôi chùa trở thành chỗ nương tựa tinh thần và biểu tượng đạo đức của xã hội Việt Nam.
Có những ngôi chùa có mặt một cách khiêm tốn hài hòa trong lòng thôn xóm, được sự chăm sóc và trân trọng của dân làng và trở thành chùa làng. Có những ngôi chùa được xây dựng nguy nga, đẹp đẽ, kiến trúc độc đáo, biểu tượng cho văn hóa nghệ thuật kiến trúc của dân tộc.
Chùa Việt Nam qua hai mươi thế kỷ, đã thực hiện sứ mạng của mình là giáo dục đạo lý làm người, xây dựng nền tảng đạo đức cho xã hội, bảo tồn và phát huy nền văn hóa dân tộc, nhất là trong những thời kỳ đen tối nhất của lịch sử.
Hệ thống chùa chiền ở Việt Nam ngày càng phát triển để đáp ứng nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng truyền thống, vừa đáp ứng nhu cầu giáo dục trong hiện đại. Tác dụng giáo dục của một ngôi chùa ngày càng được xác định.
Trong phạm vi của một bài phát biểu, chúng tôi sẽ đề cập một cách khái quát về tác dụng vốn có, và trong thời hiện đại của một ngôi chùa Phật giáo.
A.TÁC DỤNG GIÁO DỤC CỦA NGÔI CHÙA
I. Ngôi chùa là cơ sở giáo dục :
Ngôi chùa, dù là ngôi chùa nhỏ bé của làng hay nguy nga tráng lệ ở chốn phồn hoa, trực tiếp hay gián tiếp, là cơ sở có tác dụng giáo dục.
Ngày xưa, có những giai đoạn lịch sử, chùa chiền là nơi dạy học, các nhà sư là thầy giáo, ngôi chùa gắn bó với chương trình giáo dục quốc dân, như một học giả viết : “Thời Giao Châu đô hộ phủ, các lò huấn dục nhân tài ắt phải ở tại các ngôi chùa Phật giáo cổ xưa, vốn thân cận với nhân dân bị trị, nơi quy tụ tín ngưỡng của nhân dân”. (PGVN, Nguyễn Đăng Thục, tr.284). Các lò huấn dục liên tục tồn tại cho đến các thời kỳ đất nước độc lập hưng thịnh như thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Sử chép : “Bấy giờ, chưa có các kỳ thi Nho học, những người thông minh và có học chỉ được biết, được học qua các vị Tăng”. (PGVN, Trần Văn Giáp).
Tác dụng giáo dục của bản thân ngôi chùa còn được thấy qua giá trị thẩm mỹ : khung cảnh thiên nhiên, nghệ thuật kiến trúc. Một ngôi chùa luôn luôn gần gũi với thiên nhiên, hài hòa với thôn xóm, môi trường mát mẻ, yên tĩnh phù hợp với điều kiện thăng hoa tâm lý, xúc cảm… Cảnh chùa trong văn học, trong lòng người dân luôn là hình ảnh êm dịu, ngọt ngào, và thanh thoát. “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” là câu nói cửa miệng của dân tộc Việt. Sự ảnh hưởng của cảnh chùa đối với tâm tư tình cảm quần chúng thật là sâu sắc và bền chặt. Chùa trở thành biểu tượng của quê hương, như bài thơ mộc mạc :
“Mai này tôi bỏ quê tôi.
Bỏ trăng, bỏ gió chao ôi bỏ chùa”.
(Nguyễn Bính)
Tình cảm thiết tha nồng nàn đó, chứng tỏ ngôi chùa là dấu ấn văn hóa ở trong lòng người Việt Nam . Ngôi chùa thật sự đã tác dụng thăng hoa tâm lý, tình cảm của con người.
II. Tác dụng giáo dục đạo đức :
Sống là hoạt động không ngừng, nhưng phải hoạt động theo điều thiện để đời sống cá nhân và cộng đồng được ổn định và phát triển.
Nền luân lý đạo đức của Phật giáo là những nguyên tắc hướng dẫn con người hướng thiện. Qua giáo lý Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi, nền đạo đức nhân bản được thiết lập và đã đi vào đời sống của người dân, quyện vào nếp nghĩ, nếp sinh hoạt và văn hóa của xã hội.
Giáo lý Nhân quả xác định : “Ở hiền gặp lành, ở ác thì gặp dữ”, “Gieo gió gặt bão”, làm con người ý thức tầm quan trọng trong hành vi của mình để tránh hậu quả xấu. Giáo lý Nghiệp báo xác định vai trò trách nhiệm của mình đối với hành vi của mình. Cuộc sống đau khổ hay hạnh phúc tùy thuộc hành vi tạo tác của mình, hay nói cách khác con người là chủ nhân của chính mình. Nguyễn Du đã nói :
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa”.
Lý Nhân quả, Nghiệp báo nói lên tính công bằng của cuộc sống, không ai có thể chạy trốn được tội ác mà mình đã làm. Vì vậy, nó có tác dụng giáo dục đạo đức xây dựng xã hội cao. Trên cơ sở luật Nhân quả và chuyển động Nghiệp báo, con người vẫn tiếp diễn đời sống của mình để : “Trả những nợ đã vay” hoặc “Thừa hưởng gì đã tạo”. Sự tiếp diễn theo vòng quay bánh xe gọi là vòng luân hồi. Thuyết Luân hồi làm cho con người có niềm tin và khả năng chuyển đổi đời sống của mình, như ca dao đã nói :
“Ai ơi hãy ở cho lành,
Kiếp này chẳng được, để dành kiếp sau”.
Người dân Việt Nam sống hiền hòa, bao dung, độ lượng, có đạo lý, làm cho cuộc sống bình yên hạnh phúc, đó là nhờ vào quan niệm sống dựa trên luật Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi:
“Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây đức để đời về sau”.
Hoàng Xuân Hãn nhận định : “Sau các đời vua hung hãn họ Đinh, Lê ta thấy xuất hiện ra những kẻ cầm quyền có độ lượng khoan hồng, những người giúp việc bớt tham lam phản bạn. Đời Lý có thể là đời thuần từ nhất trong nước ta đó chính là nhờ ảnh hưởng Đạo Phật”.(Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt)
Các hình tượng, các biểu tượng trong các ngôi chùa luôn nói lên tinh thần giáo lý Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi, nói lên giá trị của đời sống thiện. Hình ảnh mười cửa ngục trừng phạt kẻ ăn ở độc ác, những vị thiện thần, ác thần… đều có nghĩa răn đe kẻ ác, khích lệ người thiện.
Nơi nào có chùa chiền, có sự giáo dục của Phật giáo, xóm làng nơi đó bớt đi tranh chấp, hận thù, tội phạm hình sự, con người hiền lương hơn, biết sống cho kẻ khác hơn.
Sự tác động giáo dục thường nhật của một ngôi chùa tạo nên ý thức về đạo đức, bổn phận, trách nhiệm. Nhờ đó, xây dựng ý thức đạo đức cho cộng đồng xã hội, nghĩa là xây dựng tiêu chuẩn đạo đức chung cho xã hội. Năm yếu tố đạo đức mà một người Phật tử phải tuân thủ là hướng đến mục tiêu ấy. (Năm yếu tố đạo đức : không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không dối trá, không rượu chè say sưa).
Ngôi chùa không những đã đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng truyền thống cho mọi người, xây dựng đạo đức xã hội mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh vĩnh cửu. Giới trẻ ngày càng mất hướng đối với xã hội văn minh vật chất họ quay về tìm chỗ dựa tinh thần trong lòng dân tộc, trong ấy, chùa chiền là cơ sở thực tế nhất.
III. Tác dụng giáo dục dân tộc tính :
Từ thuở ban đầu, Đạo Phật du nhập vào đất Việt đã dần dần bản địa hóa trở thành tôn giáo của dân tộc. Kiến trúc chùa chiền, đời sống sinh hoạt, quan niệm tín ngưỡng đều tùy thuộc và phù hợp với tính dân tộc. Đều quan trọng là từ vị trí tùy thuộc dân tộc tính trở thành vai trò duy trì dân tộc tính, không phải ngẫu nhiên mà có những lời thơ :
“Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông”.
“Nếp sống muôn đời của tổ tông” biểu hiện qua tín ngưỡng cổ truyền : tin vào thần hoàng, thổ địa… cao nhất là ông trời, là những vị thấy hết những nỗi khổ đau và ước vọng của dân tộc và bảo vệ người dân. Tín ngưỡng đó hòa quyện với tín ngưỡng Đức Phật. Phật và trời đều là đối tượng cầu nguyện trong cơn ngặt nghèo của đông đảo đồng bào :
“Nghiêng vai, khấn vái Phật trời,
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân”.
“Nếp sống muôn đời của tổ tông” còn được biểu hiện qua phong tục cúng tế tổ tiên, nhớ ơn tiền nhân, cúng kỵ cha mẹ hay những người đã khuất. Với chủ trương coi trọng và đền đáp bốn ân ( Tứ ân ): ân quốc gia, ân thầy tổ, ân cha mẹvà ân chúng sinh, Đạo Phật thỏa mãn nhu cầu nhớ ân, báo ân, báo hiếu của người dân Việt. Các lễ hội đầu năm, lễ Vu lan đã trở thành lễ hội truyền thống của dân tộc.
Mái chùa là nơi diễn ra các sinh hoạt lễ hội truyền thống, là môi trường trực tiếp hay gián tiếp nuôi dưỡng nếp sống đạo đức, văn hóa dân tộc. Chất (dân tộc ) được bảo quản, được lan truyền ở dưới mái chùa cong vút hiền hòa.
IV. Tác dụng giáo dục sự tỉnh thức :
Một thi sĩ nói :
“Biển khổ mênh mông sóng ngụt trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi.
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
Ngoảnh lại cùng trong bể thảm thôi”.
Mới nghe thì bi thảm quá, nhưng đó là sự thật. Nhận chân sự khổ là nhận thức cơ bản về sự thật của cuộc sống. Nhận thức như vậy là do kinh nghiệm “Khốn nhi tri”. Nhưng cái khốn khổ ấy, theo Phật giáo, thì cội nguồn của nó ở trong tâm hồn của mỗi người. “cái bể khổ trầm luân ấy chính là tham, sân, si, tật đố, ngã mạn của chúng sinh, chớ không phải ở đâu xa” (Vô ngã là Niết Bàn, Thích Thiện Siêu, tr 24).
Tỉnh thức để thấy rõ cội nguồn của đau khổ, vơi bớt đau khổ, tìm thấy lẽ sống đích thực. Khi sự tỉnh thức được tác động lên tâm hồn đang mê muội trong chốn trần ai. Con người trở nên hoài cảm về cuộc đời, nhân tình thế thái, giựt mình chiêm nghiệm thân phận con người trong giấc mộng ba sinh, như Chu Mạnh Trinh đối với Chùa Hương:
“Thỏ thẻ rừng mai, chim cúng trái
Lững lờ khe yến, cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng…”
(Chu Mạnh Trinh)
Nhờ khung cảnh thoát tục của chùa chiền, nhờ có các biểu tượng thiêng liêng, nhờ tư tưởng sâu sắc của Phật giáo, con người có điều kiện lấy lại sự an bình cho tâm hồn. Cửa thiền rõ ràng là có giá trị cao về mặt đánh thức tâm hồn mê muội của nhân sinh, đáp ứng nhu cầu hướng về chân lý và hạnh phúc vĩnh hằng. Học giả Nguyễn Đăng Thục nhận định : “Đạo Phật Việt Nam thời xưa, nó đáp ứng nhu cầu thâm sâu của con người trong cuộc sống, đó là tín ngưỡng tin vào giá trị vĩnh cửu trong đời sống tâm linh vượt sống chết”. (PGVN, Nguyễn Đăng Thục)
Chúng tôi cho rằng đây mới là mục tiêu và giá trị đích thực của con đường giáo dục Phật giáo mà ngôi chùa là một điều kiện xúc tác.
B. VẤN ĐỀ TÁC DỤNG TRONG GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI :
I. Xã hội hiện đại :
Xã hội hiện đại khác xa xã hội ngày xưa. Ngày nay xã hội phát triển với tốc độ chóng mặt. Khoa học kỹ thuật là động lực chính cho sự phát triển đó.
Nền tảng tư tưởng, văn hóa đạo đức, luân lý truyền thống lung lay tận gốc rễ, khó mà giữ được vai trò chủ đạo cho nếp sống mới. Từ đó, những vấn đề bức xúc mới nảy sinh, tạo mâu thuẫn giữa xã hội và trong gia đình, dẫn đến khủng hoảng niềm tin, đạo đức, tâm lý…
Đối tượng của tri thức thay đổi nhanh chóng và toàn diện, lượng thông tin hầu như quá tải đối với sự tiếp nhận của đầu óc con người. Một đứa trẻ nhận được thông tin nhiều gấp hàng trăm lần so với lượng thông tin mà một người trưởng thành nhận được vào thế kỷ trước. Vì vậy, con người hiện đại, đối tượng giáo dục, đã thay đổi nhiều, đa dạng và phức tạp.
II. Chùa chiền hiện nay :
Những tác dụng giáo dục vốn có như đã trình bày ở trên đến nay các chùa chiền vẫn còn kế thừa, vẫn có cơ sở để phát triển. Tuy nhiên, trước tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, đời sống xã hội, con người thay đổi gần như toàn diện làm cho giá trị giáo dục của chùa chiền, vốn không thay đổi mấy, trở nên lạc hậu so với tình hình.
Sự phát triển xã hội, chủ yếu là phát triển vật chất, nhu cầu hưởng thụ dễ dàng thỏa mãn, xu hướng kinh tế hóa lan vào lãnh vực tinh thần, chùa chiền.
Những hoạt động chủ yếu của chùa chiền hiện nay là đáp ứng toàn diện nhu cầu tín ngưỡng bình dân : cầu an, cầu siêu, cúng đất, mở cửa mả…, nhờ vậy chùa chiền mới tăng thu nhập, có như thế mới đáp ứng được nhu cầu vật chất ngày nay.
Mặt khác, phần lớn những vị trụ trì khả năng hạn chế, không được đào tạo hay đào tạo chưa đạt yêu cầu đã không đủ năng lực điều hành hoạt động của một ngôi chùa, không khai thác hết khả năng của một ngôi chùa để đáp ứng cho nhu cầu mới thời hiện đại.
Về mặt nổi, thì chùa chiền hiện nay đang quá tải về lượng quần chúng tín ngưỡng quy tụ. Về mặt chất, mặt nội dung, thì cần phải xét lại. Người trí thức ngại đến chùa vì họ bị lạc lõng giữa biển người đầy nhang khói. Giới trẻ thì ít có cơ hội tiếp cận với chùa chiền hay với nền đạo đức Phật giáo. Nếu có tiếp cận, lại hoài nghi về giá trị đạo đức, tín ngưỡng. Ít có người có khả năng thích hợp để dẫn dắt giới trẻ, ít có tài liệu mới phù hợp cho căn cơ và kiến thức thời đại. Người ta đi chùa như là một nhu cầu quen thuộc hay thỏa mãn ước vọng thầm kín nào đó.
Với tinh thần như vậy, trong tương lai ngôi chùa khó mà giữ được vai trò như trong quá khứ đã có.
III. Những điều kiện cần thiết trong xã hội hiện đại :
1. Vai trò của tổ chức giáo hội :
Để khắc phục những nhược điểm tồn tại, để khai thông tình trạng bế tắc đang và sẽ xảy ra, trước hết những người có trách nhiệm phải nhận ra chỗ yếu kém của ngôi chùa, thiết tha tìm một hướng đi mới. Phải mạnh dạn xét lại đường lối lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo. Sẽ không có sự thay đổi nào lớn nếu không có sự lãnh đạo và tác động cơ chế vĩ mô. Từ đó, các ban ngành, ngành chuyên môn của Giáo Hội như Giáo Dục, Hoằng Pháp, Viện Nghiên Cứu Phật Học… đề ra kế hoạch đồng bộ : Tiêu chuẩn hóa cán bộ Giáo Hội, giáo phẩm lãnh đạo chùa chiền. Tổ chức đào tạo theo hướng mới, tạo điều kiện tiếp cận tài liệu và tri thức về sự phát triển của xã hội hiện đại, sự thành tựu của khoa học kỹ thuật mũi nhọn, tâm lý học thanh thiếu niên, các lãnh vực trọng yếu về sự tồn tại của nhân loại, xu hướng quốc tế hóa mọi lãnh vực hiện tại và tương lai.
2. Vai trò của trụ trì :
Vị trụ trì lãnh đạo một ngôi chùa phải được trang bị vững chải về Phật học và thế học, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tu học của mọi giới. Ranh giới giữa chùa chiền và xã hội bên ngoài dần dần được xóa bỏ. Vị trụ trì không còn là Thầy của bổn đạo phật tử nữa, mà họ còn tiếp xúc và “làm thầy” đối với mọi tầng lớp người trong xã hội. Họ không chỉ giáo dục người Việt mà còn tiếp độ người nước ngoài. Vì vậy, trình độ nhận thức về văn hóa xã hội, khả năng ngoại ngữ là cần thiết.
Mặt khác, vị trụ trì còn phải tu dưỡng nâng cao trình độ đạo đức tâm linh. Giáo dục quần chúng qua hành vi của bản thân có tác dụng rất lớn, là một lãnh vực hết sức quan trọng mà thuật ngữ gọi là “THÂN GIÁO”. Quần chúng sẽ học được rất nhiều ở nhân cách của một vị sư.
3. Những mô hình hoạt động :
a. Xây dựng chùa chiền :
Khi xây dựng hay sửa chữa chùa, những giá trị thẩm mỹ ngôi chùa cần phải chú trọng. Càng ngày, trình độ cảm thụ thẩm mỹ của con người càng cao. Tránh kiến trúc lòe loẹt, chắp vá. Những yếu tố trang nghiêm, thanh thoát, hài hòa của nghệ thuật kiến trúc cổ cần phải kế thừa, kết hợp với nghệ thuật mới có sáng tạo để đạt giá trị thẩm mỹ.
b. Tổ chức tu học :
Thường xuyên tổ chức tu học cho Phật tử qua các hình thức : tu Bát quan trai, khóa học giáo lý, tổ chức lễ hội và nghi lễ, sinh hoạt thanh thiếu niên, tổ chức các ban hội tương trợ… để cho ngôi chùa luôn có sinh khí.
Tu Bát quan trai là tạo điều kiện cho quần chúng Phật tử tu tập, đào luyện tâm ý, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm tu tập. Vì vậy, chương trình phải thiết lập trên cơ sở Giới, Định, Tuệ (nguyên tắc đạo đức, thiền định và trí tuệ). Mở rộng và đa dạng hóa mô hình Bát quan trai để cho giới trẻ có điều kiện tham dự.
Các khóa giảng giáo lý nên chú trọng đến thực tiễn, có khoa học và có tác dụng giải thoát. Như vậy, nguồn mạch sinh động của giáo lý mới tưới mát được lòng người. Người Phật tử phải là người vui tươi và hạnh phúc.
Tổ chức lễ hội và nghi lễ là cần thiết, những phong tục, tập quán, tín ngưỡng tốt đẹp cần duy trì và phát triển. Chú ý chuyển hóa nội dung, đừng đi ngược với tư tưởng Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi… để các sinh hoạt ấy luôn mang ý nghĩa tốt đẹp và tác dụng giáo dục cao.
Về nghi lễ, tùy theo ảnh hưởng văn hóa, lễ nhạc của mỗi miền chỉ cần tổ chức nghi lễ trang nghiêm đem lại cho người Phật tử niềm thành kính, nhất tâm, không nên tổ chức quá rườm rà không có giá trị nội dung.
Sinh hoạt thanh thiếu niên phải được quan tâm, vì thanh thiếu niên là tương lai của xã hội, là đối tượng dễ bị tác động của môi trường xấu. Tổ chức cho thanh thiếu niên có điều kiện tiếp cận với môi trường đạo đức dưới sự dẫn dắt và thương yêu của vị trụ trì, với sự hiểu biết về tâm lý, về xã hội, vị thầy trụ trì là người cha tinh thần cho tuổi trẻ nương tựa. Gia đình Phật tử là một mô hình tốt, nhưng chưa đủ. Cần đa dạng hóa tổ chức giáo dục, sinh hoạt thanh thiếu niên mới đáp ứng được căn cơ của tuổi trẻ hiện tại.
Tổ chức các Ban hội tương trợ là tổ chức quần chúng dưới hình thức Ban hội, tạo cơ hội cho sự phát triển tinh thần thân hữu, sự đoàn kết, thương yêu nhau dưới một mái chùa. Tổ chức thăm viếng nhau lúc đau ốm, hoạn nạn. An ủi nhau lúc khốn khó, chia xẻ và cầu nguyện cho nhau khi qua đời hay khi gia đình có tang chế.
Qua đó nâng cao tác dụng giáo dục đạo đức và hiệu quả tu học, như người xưa thường nói : “ Aên cơm có canh, tu hành có bạn”.
C. KẾT LUẬN
Ngôi chùa, vị trụ trì và phương thức hoạt động là ba yếu tố liên hệ hữu cơ, để phát huy tác dụng giáo dục Phật giáo có hiệu quả, trong quá khứ cũng như trong thời hiện đại.
Tác dụng giáo dục của chùa chiền đối với con người và xã hội Việt Nam, trong quá khứ rất lớn, cần phải có những công trình nghiên cứu nghiêm túc, mới có thể thẩm định được giá trị của nó. Điều mà chúng ta có thể thấy ngay là : chùa Việt Nam đối với dân tộc Việt quá gần gũi, thân thiết, là một biểu tượng không thể thiếu trong các sinh hoạt tinh thần của người Việt.
Tuy nhiên, như đã trình bày, với sự phát triển cao độ của khoa học kỹ thuật, xã hội thay đổi gần như toàn diện, đã tạo nên sự khủng hoảng niềm tin về giá trị tư tưởng, văn hóa, đạo đức, truyền thống. Phật giáo, chùa chiền, tất nhiên cũng có chung số phận.
Chúng ta cần phải thấy rõ vấn đề, quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa để bổ sung các quan điểm, phương thức hoạt động của một ngôi chùa, phù hợp với quy luật phát triển xã hội hiện đại. Làm thế nào để ngôi chùa tiếp tục phát huy tác dụng giáo dục của nó trong thời đại mới, góp phần xây dựng nền đạo đức mới để phục vụ cho mục tiêu an bình và hạnh phúc cho xã hội nhân sinh ở hiện tại và cũng như trong tương lai.

THÍCH VIÊN GIÁC


Thích Viên Giác
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712