Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

10 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)

BÀI THỨ MƯỜI

PHẦN CHÁNH TÔN (tiếp theo và hết) 

64.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI CŨNG CÓ ÐI, ÐỨNG, NẰM, NGỒI”

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có người chấp:  Như-Lai cũng tới, lui, nằm, ngồi v.v… thì người đó không hiểu nghĩa Như-Lai. 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nghĩa là không từ đâu đến và cũng không đi về đâu, nên gọi là Như-Lai. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá cái chấp “Như-Lai cũng đi, đứng, nằm, ngồi v.v…” 

       Pháp thân của Phật như như bất động, không khứ không lai, không sanh không diệt.  Phật chứng được pháp thân này, nên gọi là Như-Lai. 

65.    PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “THẬT CÓ VI-TRẦN VÀ THẾ-GIỚI” 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có người chẻ nhỏ Ðại-thiên thế-giới (một nghìn triệu thế-giới nhỏ) thành vi-trần.  Vậy số vi-trần này nhiều không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Nhiều lắm! 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói các vi-trần, không phải thật vi-trần, chỉ giả gọi là vi-trần.  Nếu các vi-trần thật có, thì Như-Lai không gọi là vi-trần (chỉ gọi cái tướng, do chẻ nhỏ thế-giới mà thành). 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói thế-gìới không phải thật thế-giới, chỉ giả gọi là thế-giới.  Nếu thế-giới thật có, thì Như-lai không gọi là thế-giới, mà chỉ gọi là cái tướng tổng-hợp của nhiều vi-trần. 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói cái tướng tổng hợp (thế-giới) không phải tướng tổng hợp, chỉ giả gọi là tướng tổng hợp. 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Chúng phàm-phu vì không biết đó là một cái tướng tổng hợp của nhiều vi-trần, nên chấp là thật có thế-giới, rồi sanh tâm tham-lam luyến ái v.v…

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá cái chấp “thật có vi-trần và thế-giới”.  Ðây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 24) Phật phá cái chấp vi-trần và thế-giới. 

       Chẻ vật lớn nhứt như thế-giới, chẻ cho đến lúc không còn chẻ được nữa, thì tạm gọi đó là “vi-trần” (bụi nhỏ).  Rồi tổng hợp rất nhiều vi-trần, cho đến thành cái tướng lớn nhứt, thì tạm gọi đó là thế-giới. 

       Vậy thì, vi-trần là do chẻ thế-giới ra đến tột độ mà tạm có; ngược lại thế-giới là do tổng hợp nhiều vi-trần, đến mức cùng tột mà tạm thành.  Cả hai vi-trần và thế-giới đều không thật thể, chỉ có giả danh mà thôi. 

       Tóm lại, tất cả muôn sự muôn vật trong vũ-trụ, lớn như thế-giới, nhỏ như vi-trần, đều không thật thể, chỉ có giả danh mà thôi.  Chúng-sanh không biết, vọng chấp là thật, nên gặp cảnh thuận thì sanh tâm tham lam; còn gặp cảnh nghịch thì sân, si v.v… rồi tạo ra các nghiệp sanh-tử luân-hồi, từ đời này đến kiếp nọ, không biết bao giờ cùng tận. 

       Bởi thế nên Phật thuyết kinh Kim-Cang Bát-Nhã, mục-đích để phá các vô-minh vọng-chấp thật ngã, thật pháp.  Khi mây vô-minh vọng chấp hết rồi, thì mặt trăng Phật tánh (trí-huệ Bát-Nhã) hiện ra, chiếu khắp cả mười phương thế-giới. 

66.    PHẬT PHÁ “CHẤP NGÔ 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có người nói: “Phật cũng nói ngã tướng, nhơn tướng, chúng-sanh tướng và thọ-giả tướng”.  Vậy, người này có hiểu được nghĩa của Như-Lai nói không? 

Tu-Bồ-Ðề thưa: 

-          Bạch Thế-Tôn!  Người này không hiểu được nghĩa của Như-Lai nói.  Tại sao vậy?  Vì Như-Lai nói bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, nhưng không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả mà thôi. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã phá trừ cái “ngã chấp”.

       Có người chấp:  “Nếu không có “ngã”, tại sao Phật cũng nói có bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả?”  Vì chúng-sanh chấp bốn tướng thật có, nên Phật cũng nói cái tên bốn tướng, để giải-thích cho chúng-sanh biết bốn tướng đó là giả, chứ không phải Phật chấp thật có bốn tướng như chúng-sanh.  Bởi thế nên Phật dạy:  “Như-Lai nói bốn tướng, nhưng không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng”. 

67.    PHẬT PHÁ “CHẤP PHÁP” 

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Người phát tâm Bồ-đề chẳng nên chấp các pháp thật có, mà phải thấy các pháp là giả, biết các pháp là giả, hiểu các pháp là giả và tin các pháp là giả. 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Như-Lai nói “các pháp”, không thật có “các pháp”, chỉ giả gọi là “các pháp”. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã, phá trừ các chấp pháp. 

       Chúng-sanh vì chấp thật có ta (ngã) nên suốt đời, chỉ lo cho ta ăn ngon, lo cho ta mặc đẹp, lo nhà cửa cho ta ở, lo tiền cho ta tiêu dùng, lo cho ta có danh vọng, quyền tước v.v… làm việc gì cũng vì ta.  Rồi cái gì hợp với ta thì sanh tâm tham lam luyến ái, cái gì nghịch với ta thì sân, si, tật đố v.v… tạo đủ điều tội lỗi. 

       Không ngời cái “ta” chẳng thật, do các duyên hòa hợp giả tạo.  Khi các duyên tan rã rồi, thì có cái gì gọi là “ta”. 

       Ngoài sự chấp “ta”, chúng-sanh còn chấp “pháp”; nghĩa là chấp muôn sự muôn vật thật có.  Vì chấp sự vật thật có và lâu dài, nên chúng-sanh cả đời chịu khổ sở, vất vả để tìm cầu.  Ðược rồi tham cầu nữa, không biết bao giờ đủ; không được thì sân hận, tạo không biết bao nhiêu tội lỗi.  Do đó mà bị sanh-tử luân-hồi, không biết bao giờ cùng tận. 

       Không ngờ các pháp cũng đều hư giả, không thật, như bể cả biến là ruộng dâu, ruộng dâu hóa làm bể cả, có cái gì chơn thật và trường tồn.  Bởi thế nên Phật dạy:  “Người phát tâm Bồ-đề, không nên chấp các pháp thật có, mà phải thấy các pháp là giả, biết các pháp là giả, hiểu các pháp là giả, và tin các pháp là giả”. 

       Hành-giả thấy biết và tin các pháp là giả, mới ngăn chận được vọng-tưởng tham, sân, si v.v… và mới trở về với chơn-tâm thanh-tịnh của mình.

       Cũng vì thế, nên toàn bộ kinh Kim-Cang Bát-Nhã, đều nhắm mục đích đả phá các vọng-chấp ngã, pháp để chúng-sanh trở về với bản-tâm thanh-tịnh hay Phật-tánh sáng-suốt của mình. 

       Ðó là phương-pháp “hàng phục vọng tâm mà cũng là để an trụ chơn tâm”. 

68.    PHẬT TÁN-THÁN CÔNG-ÐỨC THỌ-TRÌ KINH KIM-CANG BÁT-NHà

Phật dạy: 

-          Tu-Bồ-Ðề!  Nếu có người dùng 7 món báu, đựng đầy vô lượng vô số thế-giới đem bố-thí.  Và, nếu có người phát tâm Bồ-đề thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, trọng quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức của người sau này nhiều hơn người trước. 

-          Tại sao người thọ trì đọc tụng và giảng dạy kinh này, phước đức nhiều hơn người trước?  Vì người này chẳng chấp thủ các tướng (ngã, pháp), nhập được thể-tánh Kim-Cang, như như bất động vậy. 

LƯỢC GIẢI 

       Ðoạn này Phật tán-thán công-đức người thọ trì và giảng dạy kinh này, nhiều hơn người bố-thí vô số thất bảo.  Ðây là lần thứ 14, Phật nói về công-đức trì kinh. 

       Người thọ trì kinh này, sẽ phá trừ hết các vọng-chấp ngã, pháp hay bốn tướng, ngộ nhập được Kim-Cang Bát-Nhã là tánh như như bất động và sẽ thành Phật, rồi trở lại giáo-hóa vô lượng vô số chúng-sanh đều được giải-thoát, nên phước đức nhiều hơn người bố-thí bảy báu. 

69.    PHẬT NÓI BÀI KỆ: QUÁN CÁC PHÁP HỮU-VI ÐỀU GIẢI 

Dịch âm (nguyên văn): 

               Nhứt thế hữu-vi pháp

               Như mộng, huyễn, bào, ảnh

               Như lộ diệc như điển

               Ưng tác như thị quán. 

       Dịch nghĩa: 

               Phải quán như thế này:

               Tất cả pháp hữu-vi

               Như mộng, huyễn, bọt, bóng

               Như sương, như điện chớp.        

LƯỢC GIẢI 

       Phật kết thúc thời kinh Bát-Nhã bằng một bài kệ, quán các pháp hữu-vi đều giả, để hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm. 

       Hành-giả phải luôn luôn quán tất cả các pháp trong vũ-trụ đều hư-giả, như chiêm bao, như vật huyễn-thuật, như bọt nước, như bóng tối, như sương mai và điện chớp. 

       Khi hành-giả đã đi sâu vào pháp, quán giả; nghĩa là thấy một cách chắc-chắn “các pháp đều hư-giả” như sáu món hư huyễn trên, thì hành-giả không còn khởi vọng tâm chấp thủ ngã pháp hay bốn tướng. 

       Khi các vô-minh vọng chấp không còn thì chơn-tâm thanh-tịnh hiện ra, hay nói cách khác là tánh Kim-Cang Bát-Nhà như như bất động hiện ra.  Lúc bấy giờ, hành-giả liền chứng được quả Bồ-đề, không cần phải giao lao khổ hạnh, nhiều kiếp tu hành hay phải tìm đâu xa lạ. 

       Tóm lại, đây là một phương pháp tu mau chóng, đặc-biệt của kinh Kim-Cang Bát-Nhã, để “hàng phục vọng tâm và an trụ chơn-tâm”.

PHẦN TRUYỀN-BÁ LƯU-THÔNG 

       Khi Phật nói kinh này rồi, ông Trưởng-lão Tu-Bồ-Ðề, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín-nữ, trời, ngườ và thần A-tu-la, đều tin thọ và hoan-hỷ vâng làm. 

LƯỢC GIẢI 

       Theo thông-lệ, thì tất cả các kinh của Phật đều chia làm ba phần: phần Tự (phần mở đề), phần Chánh-tôn (phần chánh đề) và phần Lưu-thông (phần truyền-bá lưu-thông). 

       Ðoạn này là phần Lưu-thông, nói về các thính-giả, sau khi nghe Phật nói kinh Kim-Cang Bát-Nhã rồi, tất cả đều lãnh thọ tin theo và hoan-hỷ vâng làm. 

Dịch xong, ngày 10-7 ẤT-TỴ

(nhằm này 6-8-1965)

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ XII)
BÁT NHÃ TÂM KINH
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712