KINH VIÊN GIÁC
(Phiên dịch và lược giải)
--------000--------
-
Ngài Phật-Đa-Đa-La dịch chữ Phạn ra chữ Hán
- Tu-sĩ
Thích Thiện-Hoa dịch chữ Hán ra chữ Việt
BÀI THỨ NHẤT
A.- PHẦN TỰ
Chính tôi được nghe như vầy:
Một hôm Phật nhập Chánh-định (Chơn-tâm) là nơi an-trụ
của chư Phật, cũng là chỗ thanh-tịnh sáng-suốt của chúng-sanh.
Phật tùy-thuận cảnh-giới bất-nhị
(không hai) là chỗ Thể-tánh bình-đẳng của chúng-sanh và chư Phật. Thể-tánh
nầy thanh-tịnh viên-mãn khắp giáp cả mười phương, tâm và cảnh đều vắng-lặng (ngã
pháp đều không).
Từ cảnh-giới “bất-nhị” nầy
mà hiện ra có các cõi Tịnh-độ và mười vạn vị đại Bồ-tát, như Ngài Văn-Thù Sư-Lợi
Bồ-tát, Ngài Phổ-Hiền Bồ-tát, Ngài Phổ-Nhãn Bồ-tát, Ngài Kim-Cang Tạng Bồ-tát, Ngài
Di-Lặc Bồ-tát, Ngài Thanh-Tịnh-Huệ Bồ-tát, Ngài Uy-Đức Tự-Tại Bồ-tát, Ngài Diệu-Âm
Bồ-tát, Ngài Tịnh-Chư-Nghiệp-Chương Bồ-tát, Ngài Phổ-Giác Bồ-tát, Ngài Viên-Giác
Bồ-tát, Ngài Hiển-Thiện-Thủ Bồ-tát v.v… Nh ững vị Bồ-tát nầy, đều là bực Thượng-thủ
trong chúng-hội, cùng với quyến-thuộc đều nhập Chánh-định, đồng ở trong Pháp-hội
thanh-tịnh bình-đẳng của Như-Lai (ở trong Viên-giác).
LƯỢC GIẢI
“Viên-giác” tức là chỉ cho “Bản tâm thanh-tịnh.”
Vậy muốn nói và nghe cảnh-giới thanh-tịnh, cố-nhiên không thể ở nơi cảnh vọng-tâm
mà nói và nghe được, nên Phật nhập Chánh-định mới nghe và hiểu được kinh Viên-giác.
Các Phật-tử đọc kinh nầy, trước phải định tâm chuyên-chú mới hiểu được.
Đại-ý đoạn nầy là Phật và
Bồ-tát nhập Chánh-định để nói và nghe kinh Viên-giác.
B.- PHẦN CHÁNH-TÔN
I.- CHƯƠNG VĂN-THÙ
1.- NGÀI VĂN-THÙ HỎI PHẬT
Khi ấy Ngài Văn-Thù Sư-Lợi
Bồ-tát ở trong đại-chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay
đảnh-lễ và quỳ thẳng bạch rằng:
- Bạch đức đại-bi Thế-Tôn, xin Ngài vì thính
chúng trong Pháp-hội hiện-tại nầy và các chúng-sanh cầu Đại-thừa đời sau, từ-bi
chỉ dạy: 1. Nói lại nhơn-địa tu-hành thanh-tịnh của Như-Lai. 2. Các
vị Bồ-Tát đối với Đại-thừa, đã phát-tâm thanh-tịnh (Bồ Đề) rồi, làm sao xa lìa được
các bịnh (trừ-vọng); khiến cho các chúng-sanh khỏi đọa vào đường tà (tà-khiến.)
Ngài Văn-Thù Bồ-Tát thưa thỉnh
như vậy ba lần, kính lạy rồi trở lui, cùng với đại chúng ngồi yên-lặng, để chờ nghe
lời Phật chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Đại-ý đoạn này là Ngài Văn-Thù hỏi Phật có hai điều:
1.- Phật đã tu-hành như thế nào mà được thành
Phật.
2.- Các vị Bồ-tát, khi đã phát-tâm Bồ-đề rồi,
làm sao cho các vọng đừng sanh.
Câu hỏi thứ nhất, giống như câu hỏi của Ngài A-Nan
trong kinh Lăng-Nghiêm: “…Xin Phật chỉ dạy cho con phương-pháp nào mà tất cả các
đức Phật tu-hành đều được thành đạo chứng quả…”
Câu hỏi thứ hai, giống như câu hỏi của Ngài Tu-Bồ-Đề
trong kinh Kim-Cang: “…Làm sao an-trụ Chơn-tâm và làm sao hang phục được Vọng-tâm…”
(Vân hà ưng trụ, vân hà hang phục kỳ tâm.)
2.- PHẬT KHEN NGÀI VĂN-THÙ
Khi ấy đức Thế-Tôn kêu Ngài Văn- Thù Sư-Lợi Bồ-tát
mà dạy rằng:
- Này Thiện-nam, quí lắm! Ông vì các vị
Bồ-Tát hiện tại và tất cả chúng-sanh đời sau cầu pháp Đại-thừa mà thưa hỏi: 1.-
Nhơn-địa tu-hành của Như-Lai; 2.- Khi đã phát tâm thanh-tịnh rồi, làm
sau xa-lìa các bịnh, để khỏi tọa vào tà-kiến. Vậy ông hãy chăm-chù nghe, tôi
sẽ vì các ông chỉ giáo.
Khi đó Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát và đại-chúng đều
hoan-hỷ, vừa kính-cẩn và vừa chăm-chú chờ nghe lời Phật dạy bảo.
LƯỢC GIẢI
Phật trưóc khen- ngợi, rồi sau dặn-dò phải chăm- chú
nghe, là vì “ Viên- giác” là cảnh-giới thanh-tịnh, phải định-tâm chí-thần, mà nghe,
không thể dùng tâm sanh- diệt, ý-nghĩa xằng-xiêng mà nghe hiểu được.
3.- PHẬT TRẢ LỜI CHO NGÀI VĂN-THÙ
- Này Thiện-nam, Như-Lai có pháp “Đại Đà-la-ni
(1) tên là Viên-Giác.” Từ tánh Viên-giác nầy mà sanh ra tất cả các pháp thanh-tịnh:
Chơn-như, Bồ-đề, (Trí-giác) Niết-bàn (Viên-tịch) và Ba-la-mật (Đáo bỉ ngạn), nay
ta sẽ dạy trao cho các ông.
- Nầy Văn-Thù, nhơn-địa tu-hành của các đức Phật
đều y “Viên-Giác” nầy mà vĩnh-viễn đoạn trừ Vô-minh, được sáng-suốt thanh-tịnh viên-mãn,
nên mới được thành Phật. Vậy “Vô-Minh” là gì?
LƯỢC GIẢI
Ngài Văn-Thù hỏi nguyên-nhơn tu-hành của các đức Phật
thế nào? Đến đây Phật mớI trả lời: Tất cả chư Phật đều y “Viên-Giác”
để chiếu phá vô-minh mà được thành Phật. Nào là: Chơn-như, Bồ-đề, Niết-bàn
và Bát-nhã Ba-la-mật- đa v.v… cũng đều từ “Viên-Giác” nầy mà lưu-xuất.
Vậy muốn ngộ được “Viên-Giác”, trước phải hiểu rõ Vô-minh
và diệt-trừ Vô-minh là cần nhứt
(1) Đà-la-ni. - Tàu dịch là
“Tổng-Trì”, nghĩa là: Tóm giữa không mất. Đây là nói tánh “Viên-Giác”
tóm chứa hằng sa công-đức, giữ-gìn không mất.
4.- PHẬT CHỈ “VÔ-MINH”
- Nầy Thiện-nam, tất cả chúng sanh từ hồi nào
đến giờ, bị nhiều món điên-đảo làm mê-mờ tánh “Viên-Giác”, như người lạc đường,
lầm lộn bốn phương. Điên-đảo vọng hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ
đại giả hợp nầy làm thân mình, chấp cái vọng-niệm sanh diệt duyên theo bóng-dáng
của sáu trần cho là thật tâm mình. Như người nhặm con mắt, thấy trong hư-không
có các hoa đốm, hoặc mặt trăng thứ hai. Thật ra trong hư-không chẳng có hoa
đốm hay mặt trăng thứ hai, nhưng vì người nhặm con mắt vọng-chấp. Bởi vọng-chấp,
nên chẳng những không biết được hư-không, mà lại thêm mê lầm: chấp thật có hoa đốm
sanh. Vì mê-lầm mà có sanh-tử luân-hồi, nên gọi là “Vô-minh.”
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật chỉ rõ cái “Vô- minh.” Vô- minh
là những cái vọng- tưởng điên- đảo che mờ tánh “Viên- Giác” (bản tâm thanh- tịnh.)
Bởi nó vọng hiện ra có thân có cảnh, rồi chúng-sanh
trở lại chấp thật-ngã thật-pháp, tạo ra vô-số nghiệp, mê mờ chồng-chập, che đậy
tính Viên-Giác! Vì thế mà nhiều kiếp sanh- tử luân-hồi, trầm-luân tron biển
khổ.
Cũng như người bị buồn ngủ (dụ cho Vô-minh) nổi lên,
làm cho mê-mờ tánh tỉnh-táo (dụ cho Viên-Giác): nhơn nó hiện ra cảnh chiêm-bao đủ
cả người và vật (hiện thế-giới chúng-sanh), rồi cũng khóc cũng cười, cũng mừng cũng
giận, mỗi mỗi đều cho là thiệt cả, nên luyến- ái triền-miên, từ giấc chiêm- bao
nầy tiếp- tục qua giấc chiêm-bao khác, không biết chừng nào thức-tỉnh.
Đây là dụ cho Vô- minh chồng-chập che mờ tánh “Viên-Giác”
(Chơn- tâm.)
5.- PHẬT DẠY “VÔ-MINH” KHÔNG CÓ THẬT-THỂ
- Nầy Thiện-nam! Cái “Vô-Minh” không có thật-thể
(thật vật). Như người ngủ chiêm bao, thấy các cảnh vật; đến khi thức rồi,
thì cảnh vật kia không còn; và như người hết nhặm, thì các hoa đốm trong hư-không
tự tiêu-diệt. Lúc bấy giờ không thể nói “thật có chỗ hoa-diệt,” vì không thật
có chỗ hoa-sanh vậy.
- Tất cả chúng-sanh ở trong cái “không sanh-diệt”
(tánh Viên-Giác) mà vọng thấy có sanh-diệt, cho nên mới bị trầm-luân trong biển
sanh-tử luân-hồi.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy Phật dạy: Tất cả chúng-sanh vẫn ở trong
bản-tánh Viên-Giác thanh-tịnh không sanh không diệt, mà tự mình mê-mờ (Vô-minh)
vọng thấy có sanh-diệt, nên vĩnh kiếp triền-miên, luống chịu trôi lăn trong biển
sanh-tử luân-hồi, thật đáng buồn thương!
Nhưng “Vô-minh” là hư vọng, không có thật-thể, cho
nên khi giác-ngộ rồi, thì nó tự hết. Cũng như cái “Tối”, vì nó không thật-thể,
nên khi “Sáng” đến, thì “Tối” tự mất. Nếu Vô-minh là vật có thật, như núi,
như sông .v.v… thì không dễ gì làm tiêu nó được.
Phật lại tỷ-dụ: Vô-minh như chiêm-bao, không phải thật
vật, nên khi thức rồi thì cảnh chiêm-bao tự mất. Vô-minh như mắt bị nhặm,
thấy hoa-đốm lăng-xăng giữa hư-không; khi hết nhặm rồi thì hoa-đốm liền tiêu.
6.- PHẬT DẠY TU THEO “VIÊN-GIÁC”
- Nầy Thiện-nam, nhơn-địa tu-hành của Như-Lai
là tu theo Viên-Giác. Nghĩa là: biết các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa
hư-không, thì không còn sanh-tử luân-hồi và cũng không có người chịu sanh-tử luân-hồi.
- Không phải phá hoại làm cho các pháp mất đi
mà kêu là không, chính bản-tính của các pháp nó tự không. Cái “biết (năng
biết) các pháp không” đó, cũng như hư-không. “Cái biết như hư-không,” cũng
không luôn. Nhưng không thể nói: “không có cái biết.” Phải dứt trừ hất
cả cái “có” và “không,” như thế mới gọi là “tùy thuận tánh Viên-Giác” (tu Viên-Giác.)
LƯỢC GIẢI
Đọan nầy Phật dạy tu theo “Viên-Giác,” có 5 từng bực:
1.- Từng bực thứ nhất, là quán các pháp đều hư-huyễn,
như hoa-đốm giữa hư-không, nên không sanh tâm tham, sân, si. Ba độc không
sanh, thì ba nghiệp thân, khẩu, ý chẳng tạo. Vì không tạo nghiệp, nên không
có cảnh luân-hồi và người bị luân-hồi.
2.- Trên nói “cảnh bị biết” không, đến từng thứ hai
là “cái tâm hay biết” cũng như hư-không.
3.- Đến từng thứ ba, là cái biết “cái tâm hay biết
cũng như hư-không” cũng không luôn.
4.- Sợ người lầm chấp cảnh-giới nầy không có
ai biết, nên đến từng thứ tư, Phật dạy tiếp: “Không, phải là không có cái biết.”
5.- Đến từng thứ năm, Phật dạy phải rời các vọng-chấp
“có” và “không,” mới nhập được tánh Viên-Giác.
7.- PHẬT VÀ BỒ- TÁT ĐỀU TU THEO “VIÊN- GIÁC”
- Tại sao thế? Vì trong Như-Lai Tạng (Viên-Giác)
không có sanh diệt, không có thấy biết, như hư không thường còn chẳng lay động,
như tánh của pháp-giới viên-mãn khắp giáp cả mười phương.
- Đây gọi là chỗ nhơn-địa tu-hành của Như-Lai,
các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây mà phát tâm thanh-tịnh tu theo Đại-thừa. Chúng-sanh
đời sau cũng phải y theo đây tu-hành, mới khỏi đọa vào tà-kiến.
LƯỢC GIẢI
Như-Lai Tạng là tánh Như-Lai hàm tàng tất cả các pháp;
cũng gọi là “Viên-Giác,” cũng kêu là “Pháp-giới-tánh” (bản tánh của các pháp.)
Nó viên-mãn khắp-giáp cả mười phương, không có sanh-diệt và cũng không tri-kiến
như hư-không thường còn chẳng lay động.
Phật dạy: Đây là chỗ tu-hành của Như-Lai. Các
vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây phát tâm thanh-tịnh tu Đại-thừa. Chúng-sanh đời
sau cũng phải y nơi đây tu-hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.
Ngài Văn-Thù hỏi hai câu:
1. Nhơn- địa tu- hành
của Như- Lai.
2. Các vị Bồ-tát phát
tâm Bồ-đề tu theo Đại-thừa, làm sao phá trừ được các vọng? Đến đây Phật đã
dậy xong.
8.- PHẬT NÓI BÀI KỆ TÓM LẠI CÁC NGHĨA TRÊN
Khi đó Đức Thế-Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, mà
nói bài kệ rằng:
Văn-Thù! Ông phải biết:
Chỗ Nhơn-địa tu-hành
Của các đức Như-Lai
Là dùng trí Viên-Giác
Phá trừ hết Vô-minh:
Biết các pháp hư-huyễn
Thì khỏi bị luân-hồi.
Cũng như người chiêm-bao,
Thức rồi cảnh mộng hết.
Cái biết cũng không còn
Sáng-suốt khắp mười phương (Viên-Giác)
Bình-đẳng không chuyển động,
Tức thì thành Phật-đạo.
Các huyễn diệt hết rồi,
Thành đạo cũng không thành:
Xưa nay tính viên-mãn.
Bồ-tát y nơi đây,
Phát tâm đại Bồ-đề,
Các chúng-sanh đời sau,
Tu đây mới khỏi đọa.
LƯỢC GIẢI
Đại ý bài kệ nầy: Các đức Phật dùng trí Viên-Giác phá
trừ Vô-minh. Nghĩa là: biết muôn vật đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư- không,
không sanh tâm nhiễm trước, nên khỏi bị luân-hồi.
Người giác-ngộ rồi cũng như ngườI thức giấc chiêm-bao:
các cảnh vật đều không còn - Cảnh “bị biết” đã không, nên “cái biết” (năng biết)
cũng không. Vì năng và sở đều không, nên tánh Viên-Giác mới hiện ra sang-suốt
chiếu khắp cả mười phương, bình-đẳng không chuyển-động, như thế là “thành Phật.”
Nói “thành Phật” là tạm nói mà thôi, thật ra cũng không
“thành.” Vì tánh “Viên-Giác” mỗi người đều có sẵn, chỉ trừ hết “Vô-minh” rồi
thì “Viên-Giác”tự hiện ra, chớ có gì đâu mà gọi là “thành.”
Cũng như người sẵn có hòn ngọc trong túi, chẳng qua
vì quên, nên in như mất. Đến khi nhớ lại thì ngọc vẫn ở sẵn trong túi áo chớ
đâu phải mới “đặng.” Bởi thế nên nói “thành đạo cũng không thành.”
Phật y theo Viên-Giác nầy mà tu, Bồ-tát cũng y theo
Viên-Giác nầy mà phát tâm Bồ-đề, cho đến chúng-sanh đời sau cũng phải y theo Viên-Giác
nầy mà tu-hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.