BÀI THỨ TÁM
I.
Ông Phú-Lâu-Na hỎi PhẬt hai câu quan-trỌng.
Lúc bấy giờ ông Phú-Lâu-Na
Di-Ða-La-Ni-Tử đứng dậy lạy Phật, chắp tay cung-kính và thưa rằng:
- Bạch Thế-Tôn, trong hàng tứ-chúng, Phật
thường khen con thuyết-pháp hơn hết; ở trong hội này con lại chứng được quả Vô-lậu.
Thế mà hôm nay con nghe Phật nói pháp nhiệm-mầu cao-thượng, hãy còn chưa hiểu. Cũng
như người điếc đứng xa một trăm bước nghe tiếng muỗi kêu; thấy còn không được, huống
chi lại nghe.
- Bạch Thế-Tôn: 1-Chơn-tâm này đã vốn
thanh-tịnh, tại sao lại thoạt sanh ra sơn-hà đại-địa và các chúng-sanh? 2-Lại nữa,
Phật nói “đất, nước, gió, lửa, tánh nó vắng-lặng thường còn, viên-dung khắp giáp
pháp-giới”. Bạch Thế-Tôn, nếu nước khắp tất cả, thì lửa phải tắt, còn lửa biến khắp
thời nước phải khô, tánh lửa thì nóng, nước lại lạnh, hai thứ trái nhau, tại sao
đồng cùng khắp cả hư-không, mà nó không diệt nhau? Lại nữa, đất thì có hình chất,
còn hư-không lại trống, tại sao hai thứ đều khắp giáp cả pháp-giới, mà không có
chướng-ngại nhau? Cúi xin đức Như-Lai vén mở ngút mây mờ cho chúng con.
Thưa hỏi xong, ông Phú-Lâu-Na kính-cẩn
trở lui, để chờ nghe lời Phật chỉ dạy.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này ông Phú-Lâu-Na hỏi Phật hai điều:
1- Chơn-tâm đã thanh-tịnh tại sao thoạt
sanh ra có thế-giới và chúng-sanh?
2- Ðất, nước, gió, lửa, tánh nó chống
trái nhau, tại sao lại dung-hòa được và biến khắp cả pháp-giới?
Về câu hỏi trước thì trong kinh này Phật
đã trả lời rõ rồi. Còn câu hỏi sau chúng ta cũng nên phân-biệt cho rõ: Phật nói
nước, lửa v.v… biến khắp cả pháp-giới, đó là Phật chỉ về phần “bản-thể” mà nói.
Ông Phú-Lâu-Na nghi nước, lửa v.v… trái nhau, làm sao đều biến khắp được. Thế là
ông Phú-Lâu-Na đứng về phần “hiện-tượng” mà hỏi.
Về hiện-tượng thì có chướng-ngại, còn
bản-thể thời không bao giờ chướng-ngại.
II. PhẬt
trẢ lỜi câu hỎi thỨ nhẤt.
Phật dạy:
- Này Phú-Lâu-Na, như lời ông nói “Chơn-tâm
đã vốn thanh-tịnh, tại sao lại sanh ra sơn-hà đại-địa, thế-giới và chúng-sanh”.
- Vậy ông có thường nghe ta nói: “Chơn-tâm
nhiệm-mầu vắng-lặng mà thường sáng-suốt chiếu soi” không? (Tánh-giác diệu-minh,
bản giác minh diệu).
Phú-Lâu-Nan thưa:
- Bạch Thế-Tôn, con có thường nghe Phật
dạy như thế.
Phật hỏi:
- Vậy chơn-tâm này, ông cho nó tự có tánh
sáng-suốt chiếu soi (phân-biệt) hay là không có sáng-suốt chiếu soi?
Phú-Lâu-Nan:
- Nó sẵn có tánh sáng-suốt chiếu soi (phân-biệt)
nên mới gọi là tâm. Nếu không có tánh sáng-suốt chiếu soi (phân biệt) thì không
gọi là tâm, vì nó không phân-biệt được cái gì cả.
Phật dạy:
- Như lời ông nói “nếu nó không sáng-suốt
chiếu soi (phân-biệt) thì không phải là tâm, vì nó không phân-biệt được cái gì cả”.
Vậy ông có hiểu chăng: nếu có chiếu soi phân-biệt thì không phải là chơn (vì có
năng phân-biệt thì phải có bị phân-biệt), còn không có chiếu soi phân-biệt, thì
chẳng phải là tâm. Nếu tâm mà không sáng-suốt thì không phải là chơn-tâm thanh-tịnh
rồi.
- Ông nên hiểu: Chơn-tâm vẫn sáng-suốt,
vì ông vọng chấp cái “sáng-suốt phân-biệt” làm tâm, nên thành ra có năng phân-biệt
(tâm) và bị phân-biệt (cảnh).
- Chơn-tâm của ông không phải cái “bị phân-biệt”,
nhưng vì ông khởi ra cái “năng phân-biệt”, nên nó (chơn-tâm) trở thành cái “bị phân-biệt”
(cảnh). Ðã vọng thành cái “bị phân-biệt”, cố-nhiên ở nơi ông phải vọng sanh ra cái
“năng phân-biệt”.
- Thế là ở nơi chơn-tâm của ông vẫn thanh-tịnh
không có năng và sở, mà thoạt nhiên thành ra có năng và sở (vô đồng dị trung, xí
nhiên thành dị).
LƯỢC GIẢI
Ðại-ý đoạn này Phật chỉ cái nguyên-nhân
từ chơn-tâm thanh-tịnh, vì vọng-động nổi lên sanh ra có thế-giới và chúng-sanh.
Chơn-tâm thanh-tịnh mỗi người đều sẵn
đủ. Nếu chấp nó “không có phân-biệt” thì chẳng phải là tâm; còn chấp nó “có phân-biệt”
thì chẳng phải là chơn.
Bởi ông Phú-Lâu-Na chấp cái “phân-biệt
chiếu soi” làm tâm, nên đã có cái phân-biệt, cố-nhiên phải có cái bị phân-biệt.
Thế là năng, sở vừa hiện, thì bỉ, thử rõ-ràng.
Ðây là Phật chỉ cái hành-tướng của vọng,
từ nơi tâm của mọi người khởi lên một cách rõ-ràng.
Một vọng-niệm vừa nổi lên, thì có trăm
ngàn vọng-niệm khác tiếp-tục theo sanh ra, cho đến vô cùng vô tận. Nhơn đó mà có
hư-không, thế-giới và chúng-sanh đồng-thời hiện ra. Cũng như người đương thức (dụ
chơn-tâm) bỗng-chốc buồn ngủ nổi lên, (dụ vô-minh vọng-động) chiêm-bao thấy có núi
sông, nhà cửa các cảnh vật hiện ra (dụ hư-không, thế-giới và chúng-sanh).
III. PhẬt chỈ cái
nguyên-nhân chung sanh ra hư-không, thẾ-giỚi và chúng-sanh.
- Từ một thể chơn-tâm không khác, vì vọng-niệm
phân-biệt, có năng sở, bỉ thử sai khác, nên hiện ra có hư-không và thế-giới. Nhơn
có hư-không thế-giới nên mới có chúng-sanh. Ðã có thế-giới và chúng-sanh lăng-xăng
đối-đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng-tưởng phân-biệt: tốt, xấu, phải, chẳng v.v…
Vì thế mà sanh ra đủ các phiền-não trần-lao nhiễm-ô. Cái có hình-tướng và sanh-diệt
là thế-giới, cái không hình-tướng và yên-tịnh là hư-không; khác với hư-không, thế-giới
là chúng-sanh vậy.
IV. PhẬt chỈ cái
nguyên-nhân riêng và tuẦn-tỰ sanh ra vũ-trỤ.
1. NGUYÊN-NHÂN SANH GIÓ
- Từ nơi chơn-tâm, do vô-minh vọng-động
mà có hư-không. Hư-không mờ-mịt vì vô-minh sanh. Trong “hư-không” có chất động,
vì là vọng. Bởi thế nên trong hư-không có gió (phong-luân) để duy-trì thế-giới.
2. NGUYÊN-NHÂN SANH RA VÀNG NGỌC
- Nhơn hư-không sanh ra gió, và vì nơi
tâm chúng-sanh có tánh cố-chấp phân-biệt, cho nên ứng-hiện ra ngoài thế-giới có
những chất cứng chắc là vàng ngọc (vàng ngọc cứng chắc là vì tâm cố-chấp sanh. Nó
sáng-ngời là do tâm phân-biệt sanh). Ðây là nguyên-nhân có chất kim-khí để bảo-trì
thế-giới.
3. NGUYÊN-NHÂN SANH RA LỬA
- Trong tâm chúng-sanh vì có tánh cố-chấp
phân-biệt, nên sanh ra chất cứng chắc là kim-khí, và vì có vọng-động mà thành ra
gió. Rồi gió thổi kim-khí, nó cọ xát mãi, nóng lên, nên nhánh sanh ra ánh-sáng là
lửa. Ðây là cái nguyên-nhân có lửa để nấu đốt các vật.
4. NGUYÊN-NHÂN SANH RA NƯỚC
- Chất vàng ngọc vừa sáng ngời và đượm
mát. Nhơn lửa xông lên, nên có hơi nước rịn ra. Ðây là nguyên-nhân có nước để bao-bọc
cả mười phương thế-giới.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm vọng-động nên biến hiện ra ngoài
thế-giới có gió. Vì tâm cố-chấp, cho nên biến hiện ra ngoài thế-giới có vàng ngọc.
Vì tâm nóng-nảy, nên biến-hiện ra ngoài thế-giới có lửa. Vì tâm tham-ái, cho nên
biến-hiện ra ngoài thế-giới có nước.
5. NGUYÊN-NHÂN SANH RA CỒN-ÐẢO VÀ BIỂN
- Vì tánh lửa bốc lên, còn nước thì lại
chảy xuống, nên có chỗ thấp ướt là sông biển, chỗ nổi lên cao là cồn-đảo. Bởi lửa
và nước dung-hòa nhau, cho nên trong biển thỉnh-thoảng bốc lên ánh-sáng của lửa,
trong cồn-đảo lại có sông rạch thường chảy ra nước.
LƯỢC GIẢI
Trong bộ Tông-cảnh nói: “Vì tâm luyến-ái
nên ứng-hiện ra ngoài thành sông biển. Vì tâm cố-chấp nên ứng-hiện ra ngoài thành
cồn-đảo, tâm khinh-mạn thành ra gió, tâm nóng-nảy, sân-hận thành ra lửa. Bởi thấy
sắc-dục sanh tâm luyến-ái, nên hiện ra ngoài thế-giới: trong cồn-đảo có nước thường
chảy. Vì trái với sự thương-yêu thì nổi sân, nên hiện ra ngoài thế-giới: trong biển
có lửa phát lên. Tóm lại, bốn đại đều duy tâm biến-hiện (dụ như chiêm-bao, nếu ban
ngày nghĩ tưởng cái gì, thì ban đêm hiện ra cảnh ấy).
6. NGUYÊN-NHÂN SANH RA NÚI
- Vì thế-lực của nước yếu hơn lửa, nên
bị lửa bốc lên kết thành núi cao. Bởi thế nên đập đá có lửa, còn đốt quá nóng, thì
nó chảy ra nước.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm giận nhiều thương ít, nên ứng-hiện
ra ngoài thế-giới có núi cao.
7. NGUYÊN-NHÂN SANH RA CỎ CÂY
- Vì thế-lực của đất yếu hơn nước, cho
nên bị nước rút lên làm cỏ cây. Bởi thế nên có cây, nếu bị đốt ra thành tro (đất)
còn bị ép thì nó lại ra nước.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm thương-yêu nặng-nề, tánh cố-chấp
ít, nên ứng-hiện ra ngoài thế-giới thành cỏ cây.
- Tóm lại, vì ở trong tâm chúng-sanh, các
vọng-tưởng xen nhau phát-sanh, nên ứng-hiện ra ngoài thế-giới có các cảnh-vật. Bởi
nhân-duyên này mà thế-giới nối nhau mãi không dứt.
V. PhẬt
chỈ nguyên-nhân có chúng sanh (nhơn-sanh).
- Ông Phú-Lâu-Na, cái “hư-vọng phân-biệt”
đó không có gì lạ, chỉ vì ông chấp cái “phân-biệt chiếu soi” làm tâm. Ðã có phân-biệt,
tất-nhiên phải có cái “bị phân-biệt” đối đãi nhau. Vì thế nên cái “năng phân-biệt”
không vượt ra ngoài cảnh “bị phân-biệt” được. Do nhân-duyên này, nên nghe không
ngoài tiếng, thấy không ngoài sắc, ngửi không ngoài mùi, nếm không ngoài vị v.v…
vọng thành 6 căn và 6 trần đối nhau, nên phân ra có: thấy, nghe, hay, biết.
- Rồi theo nghiệp-lực kéo dẫn, cho nên
có những loài sanh con (như người và thú), loài sanh trứng (như chim và cá), loài
sanh chỗ ẩm-ướt (như vi-trùng v.v…), loài hoá-sanh (như trời và địa-ngục).
- Thần-thức khi đầu thai, nhơn thấy ánh
sáng (lửa dục) của cha mẹ phát ra, rồi nó khởi cái “tưởng” chung-chạ làm việc dục
ấy. Nếu nó sẽ là con trai thì ưa mẹ ghét cha, còn nó sẽ là con gái thì thương cha
mà ghét mẹ. Vì tình lưu-luyến nơi ái-dục không rời được, nên nó tự kết-nạp tư-tưởng
của nó với tinh-huyết của cha mẹ khi giao-cấu đó, kết thành ra thai. Vì có nhân-duyên
với nhau và do đồng-nghiệp kéo dẫn, nên kết thành thai-nghén. Loài thai sanh, sanh
trứng, sanh nơi ẩm-thấp, hoặc hóa-sanh đều tùy theo nghiệp của mỗi loài mà cảm ứng.
- Loài sanh trứng là do nơi tưởng nhiều,
loài sanh thai là do nơi tình nặng, loài thấp-sanh là do hiệp với chỗ ẩm-thấp, loài
hóa-sanh thì rời cảnh vật tự nó hòa-hiệp. Bốn loài biến-đổi, tùy theo nghiệp lành
hay dữ mà cảm-thọ quả-báo có thăng và trầm. Do nhân-duyên ấy mà chúng-sanh bỏ thân
nầy thọ thân kia, nối nhau không dứt.
VI. PhẬt chỈ nguyên-nhân
chúng-sanh tiẾp-tỤc sanh.
1- THAM DỤC.
- Này Phú-Lâu-Na, chúng-sanh vì tình ân-ái
kết chặt, thương tưởng quyến-luyến nhau không rời, cho nên trong thế-gian, cha mẹ,
con cháu tiếp-tục sanh ra không cùng tột, gốc tại lòng tham-dục vậy.
2- THAM SÁT.
- Loài nào cũng thương yêu thân mạng, muốn
cho mình được sống, nên tham ăn những vật bổ-dưỡng. Vì thế mà trong thế-gian này,
loài mạnh ăn thịt loài yếu, loài khôn giết loài dại. Bốn loài (noãn, thai, thấp,
hóa) ăn nuốt lẫn nhau, gốc tại lòng tham sát hại.
3- THAM TRỘM CƯỚP.
- Bởi loài người ăn thịt loài vật, loài
vật trở lại ăn thịt người. Người chết làm vật, vật chết làm người, các loài chúng-sanh,
sanh sanh tử tử, nối tiếp nhau. Các ác-nghiệp đã tạo ra rồi, thì cùng nhau vay trả,
cho đến nghìn đời không tột, gốc tại lòng tham-lam trộm cướp.
LƯỢC GIẢI
Loài vật, chúng nó không muốn cho người
giết thân mạng nó, mà người lại ỷ sức mạnh giết hại để ăn, thế nên phạm tội cướp
giựt. Có vay cố-nhiên phải có trả; nên giết hại không những phạm tội sát sanh, mà
còn phạm cả tội cướp giựt.
- Loài này cướp giựt thân mạng loài kia,
loài kia giết hại lại loài này: trả vay, vay trả lẫn nhau, đến trăm ngàn kiếp không
ra khỏi sanh tử.
- Trai mê sắc gái, gái thương tình trai,
vì tình ân-ái thương yêu lẫn nhau, nên trăm ngàn kiếp bị triền-phược trong vòng
luân-hồi.
- Tóm lại, vì ba nghiệp sát, đạo, dâm làm
gốc, nên nghiệp (nhơn) và quả nối nhau, không bao giờ cùng tận.
- Này ông Phú-Lâu-Na, thế-giới, chúng-sanh
và nghiệp-quả, ba món điên-đảo tương-tục này đều ở trong chơn-tâm, vì vô-minh vọng-động
sanh ra “năng phân-biệt” và “sở phân-biệt” tương-đối, nên vọng thấy có sơn-hà đại-địa,
thế-giới chúng-sanh, rồi tiếp-tục sanh hóa, vô cùng hư-vọng.
VII. Phú-Lâu-Na hỎi tiẾp: Chư PhẬt đã chỨng
đưỢc chơn-tâm thanh-tỊnh rỒi, vẬy chỪng nào nỔi vỌng trỞ lẠi.
Ông Phú-Lâu-Na hỏi Phật:
- Bạch Thế-Tôn, cái chơn-tâm của con đã
cùng với Phật không khác, vốn thanh-tịnh không tăng không giảm; bỗng nhiên vọng-động
nổi lên, sanh ra thế-giới và chúng-sanh. Vậy các đức Như-Lai đã chứng được chơn-tâm
ấy rồi, chừng nào vô-minh vọng-động nổi lên, sanh trở lại thế-giới và chúng-sanh
nữa?
VIII. PhẬt dùng ba thí-dỤ đỂ trẢ lỜi.
1. DỤ NHƯ NGƯỜI LẦM PHƯƠNG-HƯỚNG ÐỂ CHỈ RÕ NGỘ RỒI KHÔNG MÊ TRỞ LẠI
Phật dạy rằng:
- Này Phú-Lâu-Na, như người lầm phương-hướng,
tưởng phía Nam là phía Bắc. Ông nghĩ sao, cái “mê lầm” ấy nhơn mê mà có, hay nhơn
ngộ mà sanh? Này Phú-Lâu-Na, không phải nhơn ngộ, mà cũng không phải nhơn mê. Vì
sao? Cái mê không có căn-nguyên, thì làm sao nói nhơn mê mà có. Còn ngộ không thể
sanh ra mê được, thì sao lại nói nhơn cái ngộ mà sanh.
- Phú-Lâu-Na, người kia đương lúc đi lầm
đường, nếu có người biết đường chỉ lại cho họ: Ðây là phía Nam, kia là phía Bắc
v.v… Vậy từ đó về sau họ còn lầm lộn nữa không?
Phú-Lâu-Na thưa:
- Bạch Thế-Tôn, người kia không còn lầm-lộn
nữa.
Phật dạy:
- Này Phú-Lâu-Na, mười phương các đức Như-Lai
cũng vậy, khi ngộ được chơn-tâm thành Phật rồi, thì không bao giờ mê trở lại làm
chúng-sanh nữa. Vì cái mê lầm không thật, rốt-ráo chẳng có gốc rễ. Trước kia vốn
không mê, nhưng in-tuồng có cái mê trong cái ngộ (như đám mây che mặt nhựt). Ðến
khi giác-ngộ được cái mê, thì cái mê kia tự diệt: cái “giác-ngộ” ấy không sanh trở
lại cái mê nữa.
2. DỤ NHƯ HOA ÐỐM GIỮA HƯ-KHÔNG KHI
DIỆT RỒI KHÔNG CÒN SANH TRỞ LẠI
- Lại nữa, cũng như người bị nhặm con mắt,
thấy có hoa đốm lăng-xăng giữa hư-không. Ðến khi hết nhặm rồi thì hoa kia tự hết.
Nếu người ấy còn nhìn lại chỗ các hoa đốm diệt ở nơi hư-không kia, để trong mong
cho hoa sanh trở lại, nếu như thế ông thử nghĩ, người đó khôn hay dại?
Phú-Lâu-Na thưa:
- Hư-không không có hoa đốm, mà vọng thấy
có hoa đốm sanh diệt, thế đã là điên-đảo rồi, huống nữa, trông mong nó sanh trở
lại, thật người ấy điên-đảo lắm, không còn nói dại hay khôn nữa được.
Phật nói:
- Ông đã hiểu như vậy, tại sao còn hỏi
“Như-Lai đã ngộ được chơn-tâm thanh-tịnh, vậy chừng nào nổi vọng trở lại, sanh ra
sơn-hà đại-địa nữa”?
3. DỤ NHƯ VÀNG VÀ CỦI
- Cũng như vàng trong mỏ, khi đào lên đã
lọc hết khoáng thành vàng ròng rồi, lúc bấy giờ không còn trở lại làm khoáng nữa.
Và cũng như cây đốt thành tro, không thể trở lại thành cây nữa được.
- Chư Phật cũng thế: khi chứng được Bồ-đề
Niết-bàn rồi, không còn vọng-động trở lại làm chúng-sanh nữa.
IX. PhẬt trẢ lỜi
câu hỎi thỨ hai cỦa ông Phú-Lâu-Na.
Phật nói:
- Phú-Lâu-Na, như lời ông hỏi “nước và
lửa tại sao chẳng diệt nhau, trái lại được dung-hòa cùng nhau và đều biến khắp cả
vũ-trụ? Hư-không với đất tánh-chất không đồng, tại sao dung biến được?
- Này Phú-Lâu-Na! Tất cả các pháp, xem
về tướng (hiện-tượng) của nó, nguyên là hư-vọng, không thể chỉ bày cái gì thật là
cái gì được. Nó đã hư-vọng không thật, mà ông lại còn hỏi “tại sao nó chẳng diệt
nhau”. Như thế chẳng khác nào người ngồi trông đợi cho cái hoa đốm giữa hư-không
kia kết đậu thành ra trái, thì làm sao mà kết đậu cho được!
LƯỢC GIẢI
Như các hình chớp-bóng chiếu trên miếng
vải trắng, bởi nó không thật, nên không có cái nào ngại cái nào cả.
- Còn xem về tánh (bản-thể) của các pháp,
thì nguyên nó là chơn. Duy có một thể chơn-tâm, nguyên không phải đất, nước, gió,
lửa, thì sao lại chẳng dung-hòa nhau được.
X. PhẬt
chỈ chơn-tâm tùy duyên biẾn-hiỆn.
- Phú-Lâu-Na! Chơn-tâm của ông như thế,
nếu ông phân-biệt hư-không thì có hư-không hiện, phân-biệt đất, nước, gió, lửa,
thì đều có đất, nước, gió, lửa hiện.
- Cũng như hai người đồng xem mặt trăng
dưới nước. Rồi một người đi qua phía đông và một người qua phía tây, thì hai người
đều thấy có mặt trăng đi theo mình cả, không có chuẩn-định.
- Ông không thể hỏi “mặt trăng chỉ một,
tại sao đi theo cả hai người”; hay là nói “hai người đi riêng đều thấy có hai mặt
trăng, tại sao hiện nay chỉ thấy có một”. (Khi hai người đứng chung một chỗ).
- Phú-Lâu-Na! Ông nên biết: vì các pháp
hư-huyễn, không thể lấy đâu làm bằng-cứ được.
XI. Chúng-sanh
đi ngưỢc vỚi chơn-tâm sáng-suỐt và hiỆp theo vỌng-trẦn.
- Phú-Lâu-Na! Các ông vì trái với chơn-tâm
sáng-suốt, mê-muội hiệp theo vọng-trần, nên chơn-tâm tùy duyên biến-hiện ra có hư-không
thế-giới, các thứ trần-lao trong thế-gian, cùng khắp cả pháp giới. Vì thế nên ông
thấy có gió động, hư-không lặng, mặt nhựt sáng, mây mờ, sắc-tướng và hư-không lẫn
nhau, nước và lửa diệt nhau v.v…
XII. Chư PhẬt hiỆp theo chơn-tâm
sáng-suỐt.
- Còn ta (Phật) thì trái với vọng-trần,
hiệp với chơn-tâm thường-trụ bất sanh bất diệt, biến khắp cả pháp-giới. Cho nên
ta mới được tự-tại vô-ngại: Ở trong một hiện ra vô-lượng, vô-lượng hiệp làm một,
trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ; không rời nơi đạo-tràng mà hiện khắp cả
mười phương thế-giới. Thân ta bao trùm mười phương hư-không vô-tận. Trên đầu một
mảy lông hiện ra các cõi nước; ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp-luân. Vì ta
diệt hết vọng-trần, trở lại với bản tâm thanh-tịnh sáng-suốt, nên mới được như vậy.
LƯỢC GIẢI
Vì Phật đã ngộ chơn-tâm thanh-tịnh, nên
mới được tự-tại vô-ngại, không còn bị các vật lớn, nhỏ, nhiều, ít v.v… làm chướng-ngại.
Trái lại, chúng-sanh vì mê chơn-tâm, hiệp
theo vọng trần nên thấy có các vật lớn, nhỏ, rộng, hẹp chướng-ngại.
Bởi tâm có chướng-ngại (vọng phân-biệt)
nên thấy ngoài trần-cảnh có chướng-ngại. Nếu trong tâm hết chướng-ngại (không vọng)
thì không còn thấy có một vật gì làm chướng-ngại cả.